Hotline tư vấn: 0243 999 0601
Tư vấn qua email: info@luatminhbach.vn

Trách nhiệm pháp lý khi xảy ra hỏa hoạn ở chung cư

Hiện nay ở Hà Nội, cùng với phát triển đô thị thì các tòa nhà, căn hộ chung cư mọc lên như nấm sau mưa. Tuy nhiên ở có rất nhiều trường hợp các chủ đầu tư đã không quan tâm tới vấn đề phòng cháy chữa cháy ở các tòa nhà này. Khi có rủi ro xảy ra thì thì hậu quả là vô cùng nghiêm trọng, thiệt hại lớn cả về người và tài sản.

Vậy dưới góc độ pháp lý, Luật sư có bình luận gì về vấn đề trên, trách nhiệm khi xảy ra rủi ro sẽ do ai gánh chịu và chế tài xử lý về việc này là như thế nào?

chay-chung-cu-1433

Ảnh mình họa (internet)

Luật sư trả lời:

Hành vi bàn giao căn hộ chung cư cho cư dân vào ở khi chưa tổ chức nghiệm thu về phòng cháy và chữa cháy là rất sự coi thường tính mạng, sức khỏe và tài sản của khách hàng (người mua nhà). Bởi việc này có thể gây ra những hậu quả khôn lường, những thiệt hại vô cùng lớn trong trường hợp xảy ra sự kiện cháy, nổ. Trong thực tế, sự nguy hiểm này cũng đã được chứng minh bằng liên tiếp các vụ cháy, nổ liên quan đến nhà chung cư khi chưa đủ điều kiện về phòng cháy, chữa cháy nhưng đã tổ chức bàn giao cho cư dân về ở trong thời gian vừa qua.

Với quan điểm cá nhân, tôi cho rằng có lẽ do mức phạt quá nhẹ đã dẫn đến sự “nhờn luật” của các đơn vị kinh doanh nhà ở. Theo quy định của pháp luật hiện tại, với hành vi “đưa nhà, công trình vào hoạt động, sử dụng khi chưa tổ chức nghiệm thu về phòng cháy và chữa cháy” chỉ bị phạt tối đa là 50 triệu đồng và hình thức xử phạt bổ sung là “buộc tổ chức để cơ quan quản lý nhà nước nghiệm thu về phòng cháy và chữa cháy” (khoản 6 và điểm b khoản 7 Điều 36 Nghị định số: 167/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; Phòng, chống tệ nạn xã hội; Phòng cháy và chữa cháy; Phòng, chống bạo lực gia đình). Tuy nhiên, thời hạn để “buộc tổ chức để cơ quan quản lý nhà nước nghiệm thu về phòng cháy và chữa cháy” này lại chưa được pháp luật quy định một cách cụ thể.

Còn khi xảy ra thiệt hại nghiêm trọng về người hoặc tài sản do vi phạm về phòng cháy, chữa cháy thì những đối tượng liên quan có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “tội vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy” theo Điều 240 Bộ luật Hình sự năm 1999. Người phạm tội có thể phải đối diện với mức án cao nhất là 12 năm. Ngoài ra, Điều 240 Bộ luật Hình sự còn quy định, “phạm tội trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc  bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm”. Bên cạnh đó, người phạm tội còn có thể “bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một  năm đến năm năm”. Tuy nhiên, trong trường hợp đã bị xử lý hình sự về tội này thì thường hậu quả đã là rất lớn và rất khó khắc phục.

Dưới góc độ quản lý nhà nước về PCCC, tôi cho rằng, để xảy ra tình trạng nêu trên, một phần có lẽ cũng xuất phát từ cơ quan quản lý nhà nước về phòng cháy, chữa cháy trong công tác quản lý của mình đối với các công trình này. Rõ ràng đã có sự nương nhẹ, bỏ qua hoặc không quyết liệt trong việc buộc các chủ công trình này phải hoàn thiện hệ thống phòng cháy, chữa cháy và được cấp giấy chứng nhận thẩm duyệt rồi mới được đưa vào sử dụng. Bởi đây là các tòa nhà chung cư, có số lượng dân đến ở là rất đông chứ không phải là dạng nhà ở nhỏ lẻ để có thể cho dân vào “ở chui” được.

Vậy, trách nhiệm kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng đến đâu? Hay chỉ dừng lại ở việc “công bố danh sách” các công trình vi phạm về điều kiện PCCC và tiếp tục phó mặc sự an toàn, tính mạng, sức khỏe, tài sản của người dân vào các chủ đầu tư chỉ biết bán nhà kiếm lời? Đây thực sự là vấn đề cần phải được quan tâm, làm rõ và xác định trách nhiệm đến từng cá nhân, tập thể có liên quan.

Người thực hiện: Luật sư Trần Tuấn Anh (Giám đốc Công ty luật Minh Bạch – Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội).

Trên đây là quan điểm của Luật Minh Bạch về vấn đề trên, bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, để được hỗ trợ và tư vấn cụ thể hơn, quý bạn đọc vui lòng liên hệ trực tiếp:

Trân trọng !

0.0 sao của 0 đánh giá

Bài viết liên quan

Điều 183 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về chiếm hữu công khai

Điều 183. Chiếm hữu công khai

1. Chiếm hữu công khai là việc chiếm hữu được thực hiện một cách minh bạch, không giấu giếm; tài sản đang chiếm hữu được sử dụng theo tính năng, công dụng và được người chiếm hữu bảo quản, giữ gìn như tài sản của chính mình.

2. Việc chiếm hữu không công khai không được coi là căn cứ để suy đoán về tình trạng và quyền của người chiếm hữu được quy định tại Điều 184 của Bộ luật này.

 

Trên đây là quan điểm trả lời của Luật Minh Bạch. Bài viết trên chỉ mang tính chất tham khảo, để được hỗ trợ và tư vấn cụ thể hơn, quý bạn đọc vui lòng liên hệ theo địa chỉ:

Công ty Luật Minh Bạch

Phòng 703, số 272 Khương Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội

Hotline: 1900.6232

Email: luatsu@luatminhbach.vn

Trân trọng!

 

Điều 200 Bộ luật Dân sự quy định về việc thực hiện quyền sở hữu toàn dân đối với tài sản được đầu tư vào doanh nghiệp

Điều 200. Thực hiện quyền sở hữu toàn dân đối với tài sản được đầu tư vào doanh nghiệp

1. Khi tài sản thuộc sở hữu toàn dân được đầu tư vào doanh nghiệp thì Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản đó theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp, quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan.

2. Doanh nghiệp thực hiện việc quản lý, sử dụng vốn, đất đai, tài nguyên và các tài sản khác do Nhà nước đầu tư theo quy định của pháp luật có liên quan.

 

Trên đây là quan điểm trả lời của Luật Minh Bạch. Bài viết trên chỉ mang tính chất tham khảo, để được hỗ trợ và tư vấn cụ thể hơn, quý bạn đọc vui lòng liên hệ theo địa chỉ:

Công ty Luật Minh Bạch

Phòng 703, số 272 Khương Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội

Hotline: 1900.6232

Email: luatsu@luatminhbach.vn

Trân trọng!

 

Cấp lại giấy khai sinh theo quy định mới như thế nào

Trước đây các vấn đề liên quan thủ tục đăng ký lại khai sinh được điều chỉnh bởi Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về đăng ký và quản lý hộ tịch. Tuy nhiên, kể từ ngày 1/1/2016, Nghị định này sẽ bị thay thế bởi Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015. Do đó, thủ tục đăng ký lại khai sinh sẽ được điều chỉnh bởi Nghị định 123, cụ thể:

Điều 24 quy định: “1. Việc khai sinh, kết hôn, khai tử đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam trước ngày 1/1/2016 nhưng sổ hộ tịch và bản chính giấy tờ hộ tịch đều bị mất thì được đăng ký lại.

2. Người yêu cầu đăng ký lại khai sinh, kết hôn, khai tử có trách nhiệm nộp đầy đủ bản sao giấy tờ, tài liệu có nội dung liên quan đến việc đăng ký lại.

3. Việc đăng ký lại khai sinh, kết hôn chỉ được thực hiện nếu người yêu cầu đăng ký còn sống vào thời điểm tiếp nhận hồ sơ”.

Thủ tục đăng ký lại khai sinh

Điều 26 Nghị định 123 quy định: “1. Hồ sơ đăng ký lại khai sinh gồm các giấy tờ sau đây:

a) Tờ khai theo mẫu quy định, trong đó có cam đoan của người yêu cầu về việc đã đăng ký khai sinh nhưng người đó không lưu giữ được bản chính Giấy khai sinh;

b) Bản sao toàn bộ hồ sơ, giấy tờ của người yêu cầu hoặc hồ sơ, giấy tờ, tài liệu khác trong đó có các thông tin liên quan đến nội dung khai sinh của người đó;

c) Trường hợp người yêu cầu đăng ký lại khai sinh là cán bộ, công chức, viên chức, người đang công tác trong lực lượng vũ trang thì ngoài các giấy tờ theo quy định tại Điểm a và Điểm b Khoản này phải có văn bản xác nhận của Thủ trưởng cơ quan, đơn vị về việc những nội dung khai sinh của người đó gồm họ, chữ đệm, tên; giới tính; ngày, tháng, năm sinh; dân tộc; quốc tịch; quê quán; quan hệ cha – con, mẹ – con phù hợp với hồ sơ do cơ quan, đơn vị đang quản lý.

2. Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ, công chức tư pháp – hộ tịch kiểm tra, xác minh hồ sơ. Nếu việc đăng ký lại khai sinh là đúng theo quy định của pháp luật thì công chức tư pháp – hộ tịch thực hiện đăng ký lại khai sinh như trình tự quy định tại Khoản 2 Điều 16 của Luật Hộ tịch.

Nếu việc đăng ký lại khai sinh được thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã không phải là nơi đã đăng ký khai sinh trước đây thì công chức tư pháp – hộ tịch báo cáo chủ tịch ủy ban nhân dân có văn bản đề nghị ủy ban nhân dân nơi đăng ký khai sinh trước đây kiểm tra, xác minh về việc lưu giữ sổ hộ tịch tại địa phương.

Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản đề nghị, ủy ban nhân dân nơi đã đăng ký khai sinh trước đây tiến hành kiểm tra, xác minh và trả lời bằng văn bản về việc còn lưu giữ hoặc không lưu giữ được sổ hộ tịch.

3. Trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được kết quả xác minh về việc không còn lưu giữ được sổ hộ tịch tại nơi đã đăng ký khai sinh, nếu thấy hồ sơ đầy đủ, chính xác, đúng quy định pháp luật công chức tư pháp – hộ tịch thực hiện việc đăng ký lại khai sinh như quy định tại Khoản 2 Điều 16 của Luật Hộ tịch”.

ng1_f25af

Như vậy, khi bị mất Giấy khai sinh gốc, bạn cần chuẩn bị đầy đủ hồ sơ theo các quy định vừa trích dẫn ở trên, sau đó nộp lên UBND cấp xã nơi đã đăng ký khai sinh trước đây hoặc nơi bạn đang thường trú để thực hiện thủ tục đăng ký lại khai sinh.

Trong trường hợp không có bản sao Giấy khai sinh nhưng hồ sơ, giấy tờ cá nhân có sự thống nhất về nội dung khai sinh thì đăng ký lại theo nội dung đó. Nếu hồ sơ, giấy tờ không thống nhất về nội dung khai sinh thì nội dung khai sinh được xác định theo hồ sơ, giấy tờ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp chính thức hợp lệ đầu tiên.

Công ty Luật Minh Bạch

Vụ tai nạn đường sắt kinh hoàng khiến 6 người thiệt mạng: Trách nhiệm thuộc về ai?

Vào khoảng 5 giờ 20 phút ngày 24/10, xe ô tô Honda CRV di chuyển băng qua đường sắt thuộc địa phận xã Văn Bình, Thường Tín, Hà Nội đúng lúc đoàn tàu đang lao tới gây nên vụ va chạm kinh hoàng.

Xe ô tô CRV bao gồm 1 tài xế và 6 người khác đã bị tàu hỏa đâm văng từ nút giao cắt đường sắt ra lề đường Quốc lộ 1A, ban đầu 4 nạn nhân tử vong tại chỗ, sau đó tài xế và 2 nạn nhân còn lại được đưa đi cấp cứu nhưng cho đến nay, hai nạn nhân còn lại cũng đã tử vong.

1_207643-1

Hiện trường vụ tai nạn kinh hoàng 

Theo đó, lái xe tên Quý hiện đang được cấp cứu tại Bệnh viện Việt Đức. Trao đổi với ANTT.VN sáng 25/10, chị Nguyễn Thị Kim Tuyến – chị gái anh Quý cho biết: Sau một ngày được sơ cứu, bệnh nhân Quý chưa tỉnh hẳn nhưng đã bắt đầu có phản ứng hồi tỉnh như động đậy, hơi mở mắt…

Theo chị Tuyến, anh Quý được chẩn đoán ban đầu là gãy 5 xương sườn, bị tụ máu não phần mềm, tràn dịch ổ bụng…

Theo luật sư Trần Tuấn Anh (Giám đốc Cty Luật Minh Bạch, Đoàn Luật sư TP Hà Nội) cho biết:

Luật sư: Trần Tuấn Anh - Giám đốc công ty Luật Minh Bạch ( Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội)
Luật sư: Trần Tuấn Anh – Giám đốc công ty Luật Minh Bạch ( Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội)

“Nếu lái xe còn sống thì sẽ bị xem xét xử lý dấu hiệu của “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Khung hình phạt cho tội này hiện nay là từ 7- 15 năm tù.

Soi chiếu trường hợp cụ thể này, với hậu quả làm chết 6 người là đặc biệt nghiêm trọng (theo quy định là chỉ cần chết từ 3 người trở lên đã được coi là đặc biệt nghiêm trọng) thì rất có thể sẽ bị áp mức kịch khung là 15 năm tù.

Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là: “Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm”.

“Việc lái xe bị thương không phải tình tiết giảm nhẹ. Chỉ có việc tự nguyện khắc phục hậu quả (tức là bồi thường cho người bị thiệt hại) mới là tình tiết giảm nhẹ. Càng bồi thường nhiều thì hình phạt càng giảm. Tuy nhiên nếu sau điều trị, lái xe được chứng minh là mất hoặc giảm khả năng lao động thì hình thức bội thường nạn nhân có thể được xem xét giảm nhẹ”

Điều 194 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về quyền định đoạt của chủ sở hữu

Điều 194. Quyền định đoạt của chủ sở hữu

Chủ sở hữu có quyền bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu dùng, tiêu hủy hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật đối với tài sản.

 

Trên đây là quan điểm trả lời của Luật Minh Bạch. Bài viết trên chỉ mang tính chất tham khảo, để được hỗ trợ và tư vấn cụ thể hơn, quý bạn đọc vui lòng liên hệ theo địa chỉ:

Công ty Luật Minh Bạch

Phòng 703, số 272 Khương Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội

Hotline: 1900.6232

Email: luatsu@luatminhbach.vn

Trân trọng!

 

Điều 109 Bộ luật dân sự 2015

Điều 109. Hoa lợi, lợi tức

1. Hoa lợi là sản vật tự nhiên mà tài sản mang lại.

2. Lợi tức là khoản lợi thu được từ việc khai thác tài sản.

Điều 180 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về việc chiếm hữu ngay tình

Điều 180. Chiếm hữu ngay tình

Chiếm hữu ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu.

 

Trên đây là quan điểm trả lời của Luật Minh Bạch. Bài viết trên chỉ mang tính chất tham khảo, để được hỗ trợ và tư vấn cụ thể hơn, quý bạn đọc vui lòng liên hệ theo địa chỉ:

Công ty Luật Minh Bạch

Phòng 703, số 272 Khương Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội

Hotline: 1900.6232

Email: luatsu@luatminhbach.vn

Trân trọng!

 

Chế độ trợ cấp cơ bản của bảo trợ xã hội cho người khuyết tật.

Theo quy định của Điều 44 Luật khuyết tật năm 2010 quy định những đối tượng khuyết tật được trợ cấp xã hội hàng tháng là: “Người khuyết tật đặc biệt nặng, trừ trường hợp quy định tại Điều45 của Luật này; người khuyết tật nặng”. Theo đó, quy định của pháp luật nước ta hiện nay thì có hai đối tượng là khuyết tật được hưởng trợ cấp, hỗ trợ kinh phí hàng tháng là đối tượng bị:

+ Khuyết tật nặng: là những người do khuyết tật dẫn đến mất một phần hoặc suy giảm chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được một số hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc. Đây là đối tượng có khả năng tự phục vụ sinh hoạt nếu có người, phương tiện trợ giúp một phần hoặc suy giảm khả năng lao động từ 61% đến 80%. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì đối tượng bị khuyết tật nặng được trợ cấp hàng tháng là hệ số 1.5. Nếu người khuyết tật nặng là người già, trẻ em thì được hưởng hệ số 1.5 (hệ số1 là 180.000 đồng).

 

 + Khuyết tật đặc biệt nặng: là những người do khuyết tật dẫn đến mất hoàn toàn chức năng, không tự kiểm soát hoặc không tự thực hiện được các hoạt động đi lại, mặc quần áo, vệ sinh cá nhân và những việc khác phục vụ nhu cầu sinh hoạt cá nhân hàng ngày mà cần có người theo dõi, trợ giúp, chăm sóc hoàn toàn. Đây là đối tượng không có khả năng tự phục vụ hoặc được hội đồng giám định y khoa kết luận không còn khả năng tự phục vụ hoặc suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên. Mức trợ cấp hàng tháng cho người khuyết tật nặng là hệ số 2.0. Nếu là người khuyết tật đặc biệt nặng là người già, trẻ em thì được hưởng mức hệ số trợ cấp là 2.5. Nếu người khuyết tật ở nhiều thành phần thì được hưởng cao nhất.

Bài viết cùng chủ đề

logo-mblaw
Xóa án tích

Câu hỏi: Tôi bị phạt tù 6 tháng nhưng cho hưởng án treo và thời hạn thử thách là 1

Bài viết mới nhất

video tư vấn

dịch vụ tiêu biểu

Bài viết xem nhiều

dịch vụ nổi bật