Thành phần hồ sơ:
– Đơn đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thuốc theo mẫu; | ||||||||
– Bản chính Chứng chỉ hành nghề dược của người quản lý chuyên môn về dược mới đối với trường hợp thay đổi người quản lý chuyên môn về dược
|
Thành phần hồ sơ:
– Đơn đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh thuốc theo mẫu; | ||||||||
– Bản chính Chứng chỉ hành nghề dược của người quản lý chuyên môn về dược mới đối với trường hợp thay đổi người quản lý chuyên môn về dược
|
Trên đây là quan điểm của Luật Minh Bạch về vấn đề trên, bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, để được hỗ trợ và tư vấn cụ thể hơn, quý bạn đọc vui lòng liên hệ trực tiếp:
0.0 sao của 0 đánh giá
Định nghĩa sự kiện bất khả kháng chỉ được quy định chung trong Bộ luật dân sự năm 2015. Theo khoản 1 điều 156 Bộ luật dân sự, sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.
Theo đó, để được xem là bất khả kháng thì một sự kiện cần thỏa mãn 3 nội dung sau:
Thứ nhất, là sự kiện khách quan xảy ra sau khi ký hợp đồng. Tức là sự kiện nằm ngoài phạm vi kiểm soát của bên vi phạm hợp đồng như các hiện tượng tự nhiên: bão, lụt, sóng thần… các sự kiện chính trị, xã hội: đình công, bạo loạn, chiến tranh…, ngoài ra còn có các trường hợp như hỏa hoạn phát sinh từ khu vực bên ngoài lan sang và thiêu rụi nhà máy…
Thứ hai, là sự kiện xảy ra không thể dự đoán trước được. Năng lực đánh giá xem xét một sự kiện có xảy ra hay không được xét từ vị trí của một thương nhân bình thường chứ không phải một chuyên gia chuyên sâu. Ví dụ khu vực nhà máy của bên vi phạm thường xuyên có bão vào mùa mưa nhưng do tính bất ngờ và khó kiểm soát của bão nên việc dự đoán bão có xảy ra hay không đối với một thương nhân là không thể lường trước được. (chiến tranh, bạo loạn, đình công… hay các thảm họa thiên nhiên khác)
Thứ ba, là sự kiện xảy ra mà hậu quả để lại không thể khắc phục được dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép, là sự kiện xảy ra mà chúng ta không thể tránh được về mặt hậu quả. Tức là sau khi bên vi phạm đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết những vẫn không khắc phục được hậu quả thì mới đáp ứng điều kiện này. Tuy nhiên, nếu như bên vi phạm không thực hiện các biện pháp cần thiết để khắc phục hậu quả nhưng chứng minh được rằng dù có hành động vẫn không thể khắc phục được hậu quả thì xem như đã thỏa mãn điều kiện này.
Thứ nhất, Thẩm phán và hội thẩm độc lập với nhau trong khi xét xử
Theo điều 326 BLTTHS quy định :” Chỉ Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền nghị án. Các thành viên của HĐXX phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án bằng cách biểu quyết theo đa số từng vấn đề một. Thẩm phán biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản và được đưa vào hồ sơ vụ án…”. Việc độc lập xét xử giữa thẩm phán và hội thẩm được ghi nhận thành những nguyên tắc của luật tố tụng, đó là: Việc xét xử của TAND có hội thẩm nhân dân tham gia, của tòa án quân sự có hội thẩm quân nhân tham gia. Khi xét xử, hội thẩm ngang quyền với thẩm phán. Trước khi mở phiên tòa, khi Hội thẩm nghiên cứu hồ sơ vụ án, Thẩm phán không được đưa ra ý kiến, nhận định chủ quan của riêng mình để tránh ảnh hưởng đến sự đánh giá chứng cứ của Hội thẩm tại phiên tòa.
Thứ hai, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập với các chủ thể khác của tòa án
Mối quan hệ giữa thẩm phán, Hội thẩm và nội bộ ngành Tòa án được thể hiện ở thẩm phán với chánh án và các đồng nghiệp khác trong tòa án, giữa thẩm phán và tòa án cấp trên, giữa thẩm phán và chánh án tòa án nhân dân tối cao, giữa Hội thẩm và chánh án tòa nơi Hội thẩm tham gia xét xử. Chính vì vậy, khi xét xử để đưa ra được phán quyết một cách chính xác và khách quan, Thẩm phán và Hội thẩm cần phải độc lập với ý kiến, sự tác động của chánh án và tòa án cấp trên, phải có chính kiến và quan điểm riêng của mình trong việc xem xét câc vấn đề cụ thể trong quá trình xét xử.
Thứ ba, Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập vói các cơ quan tiến hành tố tụng khác
Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm không được dựa vào kết luận của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát mà phải tự nghiên cứu toàn bộ hồ sơ vụ án, kết hợp những chứng cứ mới thu được tại phiên tòa xét xử để có kết luận riêng của mình đối với từng vấn đề. Đồng thời các cơ quan quản lí không được can thiệp vào việc xét xử của tòa án, vì công tác xét xử đã được nhà nước giao duy nhất cho tòa án.
Thứ tư, khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập với yêu cầu của những
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập với người tham gia tố tụng, với dư luận và cơ quan báo chí là việc xét xử chỉ căn cứ vào chứng cứ vụ án và những quy định của pháp luật, không phụ thuộc vào ý kiến của những người nói trên . Ngoài ra, tính độc lập trong xét xử của thẩm phán và hội thẩm còn được thể hiện ở việc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập với sự chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, độc lập với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án
Hiện nay pháp luật không cấm các trường hợp mang thai hộ, tạo điều kiện cho các cặp vợ chồng khó khăn trong việc sinh nở, đặc biệt là do cơ địa hoặc thể chất của người vợ không thể mang thai được, thì nhờ có vấn đề mang thai hộ, giúp những cặp vợ chồng có thêm thành viên trong gia đình, và niềm vui trong cuộc sống.
Để hiểu rõ hơn về thủ tục để hưởng chế độ thai sản trong trường hợp nữ lao động mang thai hộ, theo quy định tại khoản 2 Điều 5 nghị định 115/2015/NĐ-CP như sau:
a) Bản sao bản thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo quy định tại Điều 96 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; văn bản xác nhận thời điểm giao đứa trẻ của bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ
b) Bản sao giấy khai sinh hoặc bản sao giấy chứng sinh của con;
c) Danh sách người lao động hưởng chế độ thai sản do người sử dụng lao động lập;
d) Trường hợp con chết mà thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60 ngày thì có thêm bản sao giấy chứng tử của con; đ) Trong trường hợp con chết sau khi sinh mà chưa được cấp giấy chứng sinh thì có thêm trích sao hồ sơ bệnh án hoặc giấy ra viện của người mẹ;
e) Trong trường hợp sau khi sinh con mà lao động nữ mang thai hộ chết thì có thêm bản sao giấy chứng tử của lao động nữ mang thai hộ;
g) Trong trường hợp lao động nữ mang thai hộ khi mang thai phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì có thêm giấy xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền.
Câu hỏi :
Tôi là cửa hàng mua bán điện thoại, hôm đó có 1 anh khách lạ đến bán điện thoại cho tôi và tôi thấy điện thoại còn mới hỏi sao bán thì anh nói với tôi là được cho không dùng đến nên bán. Hôm sau tôi bị công an địa phương đến làm việc và triệu tập tôi lên làm việc về tội tiêu thụ tài sản do trộm cắp mà có. Luật sư cho tôi hỏi trong trường hợp này tôi có phạm tội không và sẽ bị xử lý như thế nào?
Trả lời:
Cảm ơn bạn đã tin tưởng Luật Minh Bạch và gửi câu hỏi về cho chúng tôi, luật sư chúng tôi xin tư vấn cho bạn như sau :
Tại Khoản 1 Điều 250 BLHS quy định: “Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.
Hướng dẫn chi tiết điều luật trên, tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 1 Thông tư liên tịch số 09/2011/TTLT ngày 30/11/2011 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Tư pháp, Ngân hàng nhà nước Việt Nam, VKSND tối cao và TAND tối cao hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và tội rửa tiền (sau đây viết tắt là Thông tư số 09) có quy định như sau:
“1. “Tài sản do người khác phạm tội mà có” là tài sản do người phạm tội có được trực tiếp từ việc thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: tài sản chiếm đoạt được, tham ô, nhận hối lộ…) hoặc do người phạm tội có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ việc họ thực hiện hành vi phạm tội (ví dụ: xe máy có được từ việc dùng tiền tham ô để mua).
Cấu thành cơ bản của tội chứa chấp, tiêu thụ tài sản được quy định tại Khoản 1 Điều 250 BLHS với nội dung: “Người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”.
– Mặt khách thể và đối tượng tác động của tội phạm
Khách thể chung của tội chứa chấp, tiêu thụ tài sản là trật tự công cộng và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa và khách thể trực tiếp là trật tự quản lý Nhà nước đối với tài sản do phạm tội mà có, gây ảnh hưởng xấu đến công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm. Cho nên, đối tượng tác động của tội này là tài sản do người khác phạm tội mà có. Do đó, nếu một người chứa chấp, tiêu thụ tài sản của một người nhưng tài sản đó không phải do phạm tội mà có thì hành vi chứa chấp, tiêu thụ của họ không cấu thành tội này.
– Mặt khách quan của tội phạm
Điều luật chỉ quy định “người nào … chứa chấp, tiêu thụ tài sản …” mà không liệt kê những hành vi nào được xem là hành vi chứa chấp, tiêu thụ.
Tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 2 Thông tư số 09 quy định: “chứa chấp tài sản là một trong các hành vi sau đây: cất giữ, che giấu, bảo quản tài sản; cho để nhờ, cho thuê địa điểm để cất giữ, che dấu, bảo quản tài sản đó” và “tiêu thụ tài sản là một trong các hành vi sau đây: mua, bán, thuê, cho thuê, trao đổi, cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký gửi, cho, tặng, nhận tài sản hoặc giúp cho việc thực hiện các hành vi đó”.
Tuy nhiên, hành vi chứa chấp chỉ thuộc hành vi khách quan của tội này khi người thực hiện hành vi chứa chấp nhận tài sản từ người phạm tội. Nếu như người thực hiện hành vi chứa chấp không nhận tài sản từ người phạm tội thì hành vi của họ không phạm tội này mà có thể phạm tội khác được quy định trong Bộ luật hình sự.
– Mặt chủ quan của tội phạm
Điều luật quy định “người nào không hứa hẹn trước mà chứa chấp, tiêu thụ tài sản biết rõ là do người khác phạm tội mà có…” nên đã thể hiện rõ lỗi của người phạm tội là cố ý trực tiếp. Tuy nhiên, để làm rõ thuật ngữ “biết rõ” cũng không phải là vấn đề đơn giản. Theo hướng dẫn tại Khoản 2 Điều 1 Thông tư số 09 thì biết rõ tài sản là do người khác phạm tội mà có “là có căn cứ chứng minh biết được tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội hoặc có được từ việc mua bán, đổi chác bằng tài sản có được trực tiếp từ người thực hiện hành vi phạm tội”.
– Chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội này là chủ thể thường, tức người nào có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi do luật định thì đáp ứng về mặt chủ thể đối với loại tội này. Điều luật quy định 04 khung hình phạt khác nhau: đến 3 năm tù (Khoản 1); đến 7 năm tù (Khoản 2); đến 10 năm tù (Khoản 3) và đến 15 năm tù (Khoản 4). Cho nên người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi chỉ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi có hành vi thuộc một trong các tình tiết định khung được quy định tại Khoản 3 và Khoản 4; còn người từ đủ 16 tuổi trở lên có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của các khung từ Khoản 1 đến Khoản 4.
Ngoài các hình phạt chính, người phạm tội còn có thể bị áp dụng thêm hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 250 BLHS là “phạt tiền từ ba triệu đồng đến ba mươi triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc một trong hai hình phạt này”.
Như vậy, theo quy định của pháp luật này có thể thấy người chứa chấp tài sản do phạm tội mà có phải xác định trường hợp người này phải biết rõ tài sản này là tài sản trộm cắp nhưng bản thân bạn hoàn toàn không hề biết. Do đó bạn hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi quy định của Bộ luật hình sự.
Tuy nhiên, do bạn là bên thứ 3 không ngay tình bởi đây là tài sản bắt buộc phải có giấy tờ theo quy định của Bộ luật dân sự cho nên bên bị thiệt hại hoàn toàn có quyền yêu cầu bạn trả trả lại tài sản trộm cắp đó.
Mọi thắc mắc vui lòng liên hệ qua hotline 19006232 để được giải đáp
Trân trọng!
Công ty Luật hợp danh Minh Bạch
Phòng 703, Tầng 7, số 272 Khương Đình, Thanh Xuân, Hà Nội
Hotline : 19006232
Email: luatsu@luatminhbach.vn
TÊN DOANH NGHIỆP ————— |
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ———— |
ĐƠN ĐỀ NGHỊ CẤP GIẤY PHÉP KINH DOANH
Kính gửi: (Cơ quan có thẩm quyền)
Giấy chứng nhận đầu tư số………………do……………….cấp ngày………..tháng………năm………..
Địa chỉ trụ sở chính: (ghi đầy đủ số nhà/ đường, phố/ xã, phường/ quận, huyện/ tỉnh, thành phố)……………………………………………………………………………………………
Điện thoại:…………….Fax:…………Email: ………………Website (nếu có):………………..
Họ và tên:……………………………………Nam/Nữ:…………………………Quốc tịch:…………………….
Chức danh:……………………………………………………………………………………………………………….
Đề nghị cấp Giấy phép kinh doanh hoạt động mua bán hàng hoá
và các hoạt động liên quan trực tiếp đến mua bán hàng hoá với nội dung sau:
III. Lập cơ sở bán lẻ thứ nhất (số 1) (nếu không lập cơ sở bán lẻ thì ghi: không lập cơ sở bán lẻ)
Họ và tên……………………………………………Nam/Nữ…………………………….Quốc tịch….
Chứng minh nhân dân/ Hộ chiếu số…………….do…………..cấp ngày……tháng……..năm……….
Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú/tạm trú…………………………………………
Chỗ ở hiện nay:………………………………………………………………………………
– Diện tích đất: ……………………………………………………………………………….
– Tổng diện tích sàn xây dựng:………………………………………………………….
– Diện tích kinh doanh mua bán hàng hoá:………………………………………….
Doanh nghiệp cam kết:
……, ngày…… tháng……. năm…….
ĐẠI DIỆN THEO PHÁP LUẬT CỦA DOANH NGHIỆP
(Ký, ghi rõ họ tên và đóng dấu)
Điều 186. Quyền chiếm hữu của chủ sở hữu
Chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, chi phối tài sản của mình nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội.
Trên đây là quan điểm trả lời của Luật Minh Bạch. Bài viết trên chỉ mang tính chất tham khảo, để được hỗ trợ và tư vấn cụ thể hơn, quý bạn đọc vui lòng liên hệ theo địa chỉ:
Công ty Luật Minh Bạch
Phòng 703, số 272 Khương Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
Hotline: 1900.6232
Email: luatsu@luatminhbach.vn
Trân trọng!
Quy định mới về giấy phép lao động
Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 11/2016/NĐ-CP (“Nghị định 11”) ngày 3 tháng 2 năm 2016 quy định chi tiết về lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Nghị định 11 có hiệu lực từ ngày 1 tháng 4 năm 2016, thay thế Nghị định số 102/2003/NĐ-CP ngày 5 tháng 9 năm 2013.
Dưới đây là một số thay đổi đáng lưu ý của Nghị định 11:
Đối tượng người lao động nước ngoài được miễn giấy phép lao động được mở rộng thêm, bao gồm:
Đơn giản hóa thủ tục xin cấp giấy phép lao động
Điều 111. Vật chia được và vật không chia được
1. Vật chia được là vật khi bị phân chia vẫn giữ nguyên tính chất và tính năng sử dụng ban đầu.
2. Vật không chia được là vật khi bị phân chia thì không giữ nguyên được tính chất và tính năng sử dụng ban đầu.
Khi cần phân chia vật không chia được thì phải trị giá thành tiền để chia.
Cơ quan thực hiện : a) Cơ quan trực tiếp thực hiện TTHC và có thẩm quyền quyết định: Phòng
Luật phá sản 2014 của Việt Nam cũng có những thay đổi khi không còn định nghĩa về “Tình trạng phá
Chi tiết điều 51, Bộ luật dân sự 2015 như sau : Điều 51 : Giám sát việc giám hộ
Gần đây nhất vụ tai nạn sập giàn giáo nghiêm trọng tại dự án chung cư Eco Green (số 1 phố
Ngày 03.10.2016 Bộ lao động thương binh và xã hội ra dự thảo báo cáo tổng kết đánh giá 03
Điều 96. Chấm dứt tồn tại pháp nhân 1. Pháp nhân chấm dứt tồn tại trong trường hợp sau đây:
Cho vay mà không có giấy tờ thì rủi ro là rất lớn và kèm theo đó là không có
Hồ sơ giải thể doanh nghiệp 1.Thông báo về việc giải thể doanh nghiệp (theo mẫu); 2.Báo cáo thanh lý
Chi tiết điều 29, Bộ luật dân sự 2015 như sau :
Điều 29 : Quyền xác định, xác định lại dân tộc
1. Cá nhân có quyền xác định, xác định lại dân tộc của mình.
2. Cá nhân khi sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ. Trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau thì dân tộc của con được xác định theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ theo thỏa thuận của cha đẻ, mẹ đẻ; trường hợp không có thỏa thuận thì dân tộc của con được xác định theo tập quán; trường hợp tập quán khác nhau thì dân tộc của con được xác định theo tập quán của dân tộc ít người hơn.
Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và được nhận làm con nuôi thì được xác định dân tộc theo dân tộc của cha nuôi hoặc mẹ nuôi theo thỏa thuận của cha mẹ nuôi. Trường hợp chỉ có cha nuôi hoặc mẹ nuôi thì dân tộc của trẻ em được xác định theo dân tộc của người đó.
Trường hợp trẻ em bị bỏ rơi, chưa xác định được cha đẻ, mẹ đẻ và chưa được nhận làm con nuôi thì được xác định dân tộc theo đề nghị của người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng trẻ em đó hoặc theo đề nghị của người đang tạm thời nuôi dưỡng trẻ em vào thời điểm đăng ký khai sinh cho trẻ em.
3. Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định lại dân tộc trong trường hợp sau đây:
a) Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ trong trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ thuộc hai dân tộc khác nhau;
b) Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ hoặc mẹ đẻ trong trường hợp con nuôi đã xác định được cha đẻ, mẹ đẻ của mình.
4. Việc xác định lại dân tộc cho người từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi phải được sự đồng ý của người đó.
5. Cấm lợi dụng việc xác định lại dân tộc nhằm mục đích trục lợi hoặc gây chia rẽ, phương hại đến sự đoàn kết của các dân tộc Việt Nam.
Chính phủ đã ban hành Nghị định 125/2016/NĐ-CP về Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam theo Hiệp định giữa Việt Nam – Nhật Bản về Đối tác kinh tế giai đoạn 2016 – 2019.
Ảnh minh họa
Theo đó, quy định điều kiện được hưởng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt (thuế suất VJEPA) nếu:
– Thuộc Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt ban hành theo Nghị định này;
– Được nhập khẩu từ Nhật Bản vào Việt Nam;
– Được vận chuyển trực tiếp từ Nhật Bản vào Việt Nam do Bộ Công thương quy định;
– Đáp ứng các quy định về xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định giữa Việt Nam – Nhật Bản về Đối tác kinh tế, có Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (C/O) mẫu JV do Bộ Công Thương quy định.
Ngoài ra, hàng hóa từ khu phi thuế quan của Việt Nam (kể cả hàng gia công) nhập khẩu vào thị trường trong nước được áp dụng thuế suất VJEPA nếu:
– Thuộc Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo Nghị định này;
– Có Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa mẫu VJ.
Nghị định 125/2016/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 01/9/2016 và thay thế Thông tư 25/2015/TT-BTC .
Điều 121. Giải thích giao dịch dân sự
1. Giao dịch dân sự có nội dung không rõ ràng, khó hiểu, được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau và không thuộc quy định tại khoản 2 Điều này thì việc giải thích giao dịch dân sự đó được thực hiện theo thứ tự sau đây:
a) Theo ý chí đích thực của các bên khi xác lập giao dịch;
b) Theo nghĩa phù hợp với mục đích của giao dịch;
c) Theo tập quán nơi giao dịch được xác lập.
2. Việc giải thích hợp đồng được thực hiện theo quy định tại Điều 404 của Bộ luật này; việc giải thích nội dung di chúc được thực hiện theo quy định tại Điều 648 của Bộ luật này.
Có lẽ đây vẫn là chủ đề nóng và gây thắc mắc cho rất nhiều người, bởi ai một lần trong đời cũng sẽ thực hiện công chứng, chứng thực các loại giấy tờ cho bản thân mình.
Trên thực tế, tùy theo tính chất của các loại bản sao y (bản sao được chứng thực) mà chia thành 2 loại thời hạn khác nhau.
Loại 1: Bản sao y có thời hạn vô hạn
Đó là bản sao y của các loại giấy tờ mang tính chất ổn định như bằng tốt nghiệp THPT, tốt nghiệp Đại học, Cao đẳng…
Loại 2: Bản sao y có thời hạn hữu hạn (thông thường là 03 tháng hoặc 06 tháng)
Đó là bản sao y của các loại giấy tờ có thể thay đổi, tùy biến các thông tin trong đó, chẳng hạn như Sổ hộ khẩu, Chứng minh nhân dân, thẻ Căn cước công dân…
Vấn đề này hoàn toàn không được quy định trong bất kỳ văn bản nào liên quan đến công chứng, chứng thực như Luật công chứng 2014, Nghị định 23/2015/NĐ-CP…
Việc phân chia như trên xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và ý nghĩa của việc công chứng, chứng thực, cho nên giữa cơ quan thực hiện công chứng, chứng thực với người dân tự ngầm hiểu, chấp nhận.
Ngày 20/10/2016 Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành công văn 4237/BVHTTDL-VHCS về tăng cường công tác quản lý và tổ chức lễ hội năm 2017:
Ảnh minh họa (internet)
Theo đó, Bộ đề nghị Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo các cơ quan ban, ngành địa phương thực hiện tốt các hoạt động lễ hội năm 2017, như là:
– Không được để xảy ra tình trạng đổi tiền lẻ hưởng chênh lệch trong lễ hội, cờ bạc, ăn xin, hoạt động mê tín di đoan, chen lấn, tranh cướp…
– Dừng những lễ hội có nội dung phản cảm, kích động bạo lực, gây bức xúc dư luận xã hội.
– Không tổ chức lễ hội vì mục đích thương mại, vi phạm quy định về nếp sống văn minh.
– Không bày bán thịt động vật hoang dã, các đồ chơi có tính bạo lực.
– Không đưa các linh vật ngoại lai, hiện vật lạ không phù hợp với thuần phong, mỹ tục của Việt Nam vào các khu di tích, khu thờ tự…
Hiện nay xã hội phát triển, việc quảng cáo thương hiệu, hàng hóa, dịch vụ là phổ biến, với những tấm biển quảng cáo diện tích lớn nhỏ đều xuất hiện mọi nơi. ở mặt bằng nhà dân, ở bên đường. Quy hoạch đặt biển quảng cáo lớn cũng cần có giấy phép. Nhưng cũng không ít biển quảng cáo ngoài trời, mang diện tích lớn, kết cấu xây dựng lâu năm gây đổ gãy sập vào nhà dân và người đi đường? Vậy cơ quan nào hay ai là người chịu trách nhiệm trong trường hợp này?
Biển quảng cáo ở TP Hồ Chí Minh đổ sập vào nhà dân
Theo quy định tại BLDS 2015, trường hợp bảng quảng cáo ngã đè trúng người gây thiệt mạng, thiệt hại về tài sản, căn cứ khoản 2 Điều 584 Bộ luật dân sự 2015 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại hại thì chủ sở hữu, đơn vị quản lý các biển quảng cáo này phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Cụ thể, trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh.
Tuy nhiên, nếu thiệt hại phát sinh khi bảng quảng cáo ngã, đổ trong trường hợp bất khả kháng (thiên tai, bão, lũ) thì chủ sở hữu, đơn vị quản lý các bảng quảng cáo không phải bồi thường: “Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”. Tuy nhiên phải chứng minh sự kiện đó là sự kiện bất khả kháng.
Trường hợp bảng quảng cáo gãy, đổ do lỗi kết cấu, không kiểm soát chất lượng, không duy tu bảo dưỡng của chủ sở hữu, đơn vị quản lý thì tùy vào mức độ, những người liên quan còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Ở đây cần lưu ý, gió bão là hiện tượng tự nhiên và được xem là thiên tai nên thường được xếp vào trường hợp bất khả kháng. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp vật hư hỏng, ngã đổ do bão gió đều được xem là bất khả kháng để loại trừ trách nhiệm của đơn vị quản lý, sở hữu đối với vật gây ra thiệt hại đó.
Khi dựng bảng quảng cáo ngoài trời thì đơn vị quản lý, thi công, chủ sở hữu đều phải tuân thủ nguyên tắc về đảm bảo an toàn trong giới hạn của thiên tai, cụ thể là bảng quảng cáo đó chịu được gió cấp bao nhiêu.
Chỉ khi vượt quá mức độ quy định thì mới được xem là bất khả kháng. Còn nếu chỉ là gió thông thường mà đã ngã đổ thì vẫn phải bị truy cứu trách nhiệm theo pháp luật từ hành chính, dân sự cho đến hình sự.
Các cơ quan chức năng phải có trách nhiệm tìm ra nguyên nhân gây ra hậu quả, có phải là do làm cẩu thả, chất lượng kém mới ra hậu quả đổ bảng quảng cáo làm chết người hay không? Phải xem xét trách nhiệm chứ không thể không có trách nhiệm. Về dân sự, chủ quảng cáo phải chịu trách nhiệm đền cho bị hại.
Còn hình sự thì phải xem xét đối với đơn vị thực hiện quảng cáo đó. Nếu thấy lỗi nặng do cơ sở quảng cáo hoặc do cơ quan thuê làm quảng cáo phải chịu trách nhiệm hình sự.
Trước hết phải có trách nhiệm dân sự sau đó cơ quan điều tra sẽ xem trách nhiệm hình sự sau bởi vì mạng người là khả xâm phạm, vô giá. Cần phải gióng lên hồi chuông về công tác quản lý các quảng cáo ngoài trời bởi vì hiện nay rất nhiều quảng cáo ngoài trời làm rất thô sơ có thể gây tai nạn bất cứ lúc nào, chưa kể là nhiều quảng cáo nhếch nhác, mất mỹ quan đô thị.
Vừa qua, Bộ Xây dựng ban hành Thông tư 24/2016/TT-BXD sửa đổi các Thông tư liên quan đến quản lý dự án đầu tư xây dựng.
Ảnh minh họa (internet)
Theo đó, cá nhân sẽ căn cứ quy định tại Nghị định 59/2015/NĐ-CP để thực hiện việc kê khai và tự xác định hạng chứng chỉ hành nghề của mình làm cơ sở tham gia các hoạt động xây dựng trong các trường hợp sau:
– Cá nhân có chứng chỉ hành nghề ghi thời hạn hiệu lực mà còn hiệu lực và được cấp trước ngày 01/9/2016 không thực hiện chuyển đổi chứng chỉ theo Thông tư 17/2016/TT-BXD .
– Cá nhân có chứng chỉ hành nghề (không ghi thời hạn hiệu lực) cấp trước ngày 01/9/2016 được sử dụng đến 30/6/2018 mà không thực hiện chuyển đổi.
– Cá nhân có chứng chỉ hành nghề hết hạn sử dụng từ sau ngày 01/3/2016 được tiếp tục hành nghề đến hết ngày 31/12/2016 và tự xác định hạng nếu không thực hiện chuyển đổi.
Ngoài ra, những quy định về sát hạch, cấp chứng chỉ hành nghề theo quy định của Thông tư 17/2016/TT-BXD sẽ được dời ngày áp dụng đến ngày 01/12/2016.
Thông tư 24/2016/TT-BXD có hiệu lực từ ngày 01/9/2016.
VKSNDTC vừa ban hành Công văn 5003/VKSTC-V14 hướng dẫn áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội trong BLHS 2015 và các quy định của BLTTHS 2015.
Theo đó, yêu cầu VKSND và VKSQS các cấp cần lưu ý những nội dung sau:
– Chỉ áp dụng các quy định của BLTTHS 2015 để thi hành các quy định có lợi cho người phạm tội của BLHS 2015, chưa áp dụng các quy định có lợi khác của BLTTHS 2015 so với BLTTHS 2003.
– Kể từ ngày 01/7/2016, với trường hợp truy cứu TNHS theo BLHS 1999 mà có căn cứ áp dụng quy định có lợi của BLHS 2015 thì khi ban hành văn bản và thực hiện hoạt động tố tụng phải:
+ Phân tích, so sánh, làm rõ các điều khoản tương ứng của 02 Bộ luật (BLHS 1999 và BLHS 2015); và
+ Viện dẫn quy định có lợi của BLHS 2015 cùng với Nghị quyết 109, Nghị quyết 144 và Khoản 3 Điều 7 BLHS 2015 để làm căn cứ quyết định việc truy cứu TNHS.
Ngoài ra, Công văn 5003/VKSTC-V14 cũng yêu cầu VKS, Cơ quan điều tra và TAND cùng cấp trao đổi để cùng thống nhất việc áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội.
Bộ Quốc phòng vừa ban hành Thông tư 130/2016/TT-BQP về điều chỉnh trợ cấp hằng tháng đối với quân nhân, người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc.
Ảnh minh họa (internet)
Theo đó, từ ngày 01/01/2016, mức trợ cấp hằng tháng mới đối với các đối tượng nêu trên được tính theo công thức:
Mức trợ cấp hằng tháng từ 01/01/2016 = Mức trợ cấp được hưởng tại thời điểm tháng 12/2015 + 150.000 đồng
Mức hưởng cụ thể theo số năm công tác sau khi đã điều chỉnh như sau:
+ Từ đủ 15 năm đến dưới 16 năm, mức trợ cấp bằng 1.535.000 đồng/tháng;
+ Từ đủ 16 năm đến dưới 17 năm, mức trợ cấp bằng 1.605.000 đồng/tháng;
+ Từ đủ 17 năm đến dưới 18 năm, mức trợ cấp bằng 1.674.000 đồng/tháng;
+ Từ đủ 18 năm đến dưới 19 năm, mức trợ cấp bằng 1.743.000 đồng/tháng;
+ Từ đủ 19 năm đến dưới 20 năm, mức trợ cấp bằng 1.812.000 đồng/tháng.
Thông tư 130/2016/TT-BQP có hiệu lực từ ngày 25/10/2016.
Tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật là một trong các tội về xâm phạm quyền tự do
Nộp trực tiếp tại phòng đăng ký kinh doanh hoặc Thông qua Cổng thông tin đăng ký doanh nghiệp quốc
Theo quy định tại Khoản 3, Điều 55 Luật Việc làm thì người lao động theo quy định tại Khoản
Đơn xin ly hôn là giấy tờ pháp lý cần thiết để tiến hành thủ tục ly hôn tại Toà
Do gặp phải những thiếu sót về mặt kỹ thuật nên Bộ luật hình sự 2015 ra đời và chưa
Câu hỏi: “Đầu năm 2014, vợ chồng tôi kết hôn, hiện nay tôi mới sinh con được hơn 6 tháng.
Câu hỏi: Một bạn ở Vĩnh Phúc có hỏi: Tôi có bằng đại học ngành chăn nuôi (thú y), vợ
Câu hỏi: Gia đình tôi có thửa đất ở quê muốn bán và đã có người hỏi mua. Nhưng bên
0243 999 0601