Luật sư

Cách tính thuế thu nhập cá nhân chuẩn nhất 2025

Hiện tại, việc tính thuế thu nhập cá nhân (TNCN) ở Việt Nam vẫn đang áp dụng theo Luật Thuế thu nhập cá nhân 2007, Luật sửa đổi các Luật về thuế 2014 và các văn bản hướng dẫn thi hành (như Thông tư 111/2013/TT-BTC, Thông tư 80/2021/TT-BTC). Chưa có văn bản pháp luật nào ban hành Luật Thuế TNCN mới.

Cách tính thuế TNCN sẽ phụ thuộc vào đối tượng nộp thuế và loại thu nhập. Dưới đây là các trường hợp phổ biến:

 

I. ĐỐI VỚI CÁ NHÂN CƯ TRÚ CÓ THU NHẬP TỪ TIỀN LƯƠNG, TIỀN CÔNG:

Đây là trường hợp phổ biến nhất và được tính theo Biểu thuế lũy tiến từng phần. Công thức chung là:

Thuế TNCN phải nộp = Thu nhập tính thuế x Thuế suất

Để tính được Thuế TNCN phải nộp, bạn cần xác định các yếu tố sau:

  1. Tổng thu nhập: Là toàn bộ tiền lương, tiền công, tiền thưởng và các khoản thu nhập có tính chất tiền lương, tiền công mà cá nhân nhận được trong kỳ tính thuế.

  2. Các khoản thu nhập được miễn thuế: Bao gồm một số khoản phụ cấp, trợ cấp theo quy định, tiền ăn trưa, tiền phụ cấp điện thoại, tiền công tác phí, v.v. (theo quy định tại Điều 3 Luật Thuế TNCN và các văn bản hướng dẫn).

  3. Thu nhập chịu thuế: Thu nhập chịu thuế = Tổng thu nhập – Các khoản thu nhập được miễn thuế

  4. Các khoản giảm trừ: Đây là các khoản được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế, bao gồm:

    • Giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp thuế: Hiện tại là 11 triệu đồng/tháng (132 triệu đồng/năm).
    • Giảm trừ gia cảnh cho mỗi người phụ thuộc: Hiện tại là 4,4 triệu đồng/tháng/người phụ thuộc. (Điều kiện người phụ thuộc được giảm trừ theo quy định pháp luật).
    • Các khoản đóng bảo hiểm bắt buộc: (BHXH, BHYT, BHTN) theo quy định.
    • Các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo, khuyến học: (nếu có và đáp ứng điều kiện).
  5. Thu nhập tính thuế: Thu nhập tính thuế = Thu nhập chịu thuế – Các khoản giảm trừ

Thuế suất theo biểu thuế lũy tiến từng phần: Sau khi có Thu nhập tính thuế, bạn sẽ áp dụng Biểu thuế lũy tiến từng phần để tính số thuế phải nộp.

 

Bậc

Thu nhập tính thuế /tháng

Thuế suất

Tính số thuế phải nộp

Cách 1

Cách 2

1

Đến 5 triệu đồng (trđ)

5%

0 trđ + 5% TNTT

5% TNTT

2

Trên 5 trđ đến 10 trđ

10%

0,25 trđ + 10% TNTT trên 5 trđ

10% TNTT – 0,25 trđ

3

Trên 10 trđ đến 18 trđ

15%

0,75 trđ + 15% TNTT trên 10 trđ

15% TNTT – 0,75 trđ

4

Trên 18 trđ đến 32 trđ

20%

1,95 trđ + 20% TNTT trên 18 trđ

20% TNTT – 1,65 trđ

5

Trên 32 trđ đến 52 trđ

25%

4,75 trđ + 25% TNTT trên 32 trđ

25% TNTT – 3,25 trđ

6

Trên 52 trđ đến 80 trđ

30%

9,75 trđ + 30% TNTT trên 52 trđ

30 % TNTT – 5,85 trđ

7

Trên 80 trđ

35%

18,15 trđ + 35% TNTT trên 80 trđ

35% TNTT – 9,85 trđ

(Trong đó TNTT là Thu nhập tính thuế)

II. ĐỐI VỚI CÁ NHÂN CƯ TRÚ KÝ HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG DƯỚI 03 THÁNG HOẶC KHÔNG KÝ HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG:

Nếu có tổng thu nhập từ tiền lương, tiền công từ 2 triệu đồng/lần trở lên thì phải khấu trừ thuế TNCN theo tỷ lệ 10% trên tổng thu nhập trước khi trả.

  • Thuế TNCN phải nộp = Tổng thu nhập x 10%

Tuy nhiên, cá nhân có thể làm cam kết theo Mẫu 08/CK-TNCN nếu đủ điều kiện (chỉ có duy nhất một nguồn thu nhập tại một đơn vị và ước tính tổng mức thu nhập chịu thuế sau khi trừ các khoản giảm trừ gia cảnh không tới mức phải nộp thuế) để tạm thời chưa khấu trừ thuế.

III. ĐỐI VỚI CÁ NHÂN KHÔNG CƯ TRÚ:

Thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công của cá nhân không cư trú được xác định bằng thu nhập chịu thuế từ tiền lương, tiền công nhân với thuế suất 20%.

  • Thuế TNCN phải nộp = Thu nhập chịu thuế x 20%

IV. THU NHẬP TỪ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH

• Thuế TNCN = Doanh thu tính thuế × Tỷ lệ thuế TNCN (%)
• – Phân phối, cung cấp hàng hóa: 0.5%
• – Dịch vụ, xây dựng không bao thầu: 2%
• – Sản xuất, vận tải, dịch vụ có nguyên liệu: 1.5%
• – Hoạt động khác: 1%
V. CHUYỂN NHƯỢNG CHỨNG KHOÁN
• Thuế TNCN = Giá trị chuyển nhượng × 0,1%
• Không cần biết lãi – lỗ.
VI. CHUYỂN NHƯỢNG BẤT ĐỘNG SẢN
• Thuế TNCN = Giá chuyển nhượng × 2%
• Miễn thuế nếu là nhà đất duy nhất.
VII. ĐẦU TƯ VỐN (lãi, cổ tức…)
• Thuế TNCN = Thu nhập từ đầu tư vốn × 5%
VIII. BẢN QUYỀN, NHƯỢNG QUYỀN
• Thuế TNCN = Thu nhập × 5%
IX. TRÚNG THƯỞNG
• Thuế TNCN = (Thu nhập – 10 triệu đồng) × 10%
• Miễn phần ≤ 10 triệu đồng/lần.
X. THỪA KẾ, QUÀ TẶNG
• Thuế TNCN = (Giá trị tài sản – 10 triệu đồng) × 10%
XI. CÁ NHÂN KHÔNG CƯ TRÚ
• Thuế TNCN = Tổng thu nhập chịu thuế × 20%
• Không áp dụng giảm trừ hay biểu lũy tiến
Bố lạm dụng việc thăm nom để gây tác động xấu đến việc giáo dục con thì người mẹ cần làm gì?

Để giải quyết tình huống bố lạm dụng quyền thăm nom để gây tác động xấu đến việc giáo dục con, người mẹ có thể thực hiện nhiều biện pháp pháp lý và thực tế để bảo vệ con. Dưới đây là các bước và hành động cụ thể mà người mẹ có thể cân nhắc:

1. Thu thập chứng cứ:

  • Ghi chép chi tiết: Người mẹ nên ghi lại một cách cẩn thận thời gian, địa điểm, nội dung các cuộc thăm nom và những tác động tiêu cực mà con phải chịu sau đó (ví dụ: con có biểu hiện buồn bã, lo lắng, thay đổi hành vi, học tập sa sút, nghe theo những lời nói không phù hợp từ bố).
  • Lưu giữ tin nhắn, email: Nếu có bất kỳ thông tin liên lạc nào giữa bố và con hoặc giữa bố và mẹ liên quan đến vấn đề này, hãy lưu giữ lại.
  • Lời khai của con (nếu phù hợp độ tuổi): Nếu con đủ tuổi nhận thức và có khả năng diễn đạt, lời khai của con về những tác động tiêu cực là một chứng cứ quan trọng.
  • Lời khai của người làm chứng: Nếu có người thân, bạn bè, giáo viên… chứng kiến những tác động xấu hoặc hành vi không phù hợp của người bố trong quá trình thăm nom, hãy thu thập lời khai của họ.

2. Trao đổi và thỏa thuận:

  • Trao đổi trực tiếp: Người mẹ nên cố gắng trao đổi trực tiếp với người bố một cách bình tĩnh và thiện chí, nêu rõ những lo ngại về tác động tiêu cực của việc thăm nom đến con và đề xuất các biện pháp khắc phục.
  • Thỏa thuận bằng văn bản: Nếu có thể đạt được sự đồng thuận, hãy lập văn bản thỏa thuận về việc thăm nom, trong đó quy định rõ thời gian, địa điểm, cách thức thăm nom, và những điều cần tránh để không gây ảnh hưởng xấu đến con. Văn bản này nên được công chứng để có giá trị pháp lý cao hơn.

3. Yêu cầu sự hỗ trợ từ các bên liên quan:

  • Người thân, bạn bè: Chia sẻ tình hình với những người thân thiết để nhận được sự hỗ trợ về mặt tinh thần và có thể can thiệp, hòa giải nếu cần thiết.
  • Nhà trường, giáo viên: Thông báo cho nhà trường và giáo viên về tình hình để họ có thể theo dõi, hỗ trợ con về mặt tâm lý và học tập, đồng thời có thể làm chứng về những thay đổi tiêu cực của con.
  • Chuyên gia tâm lý: Tìm kiếm sự tư vấn từ các chuyên gia tâm lý trẻ em để đánh giá tác động của tình hình lên con và có biện pháp hỗ trợ phù hợp. Báo cáo của chuyên gia tâm lý có thể là một chứng cứ quan trọng trước Tòa.

4. Sử dụng các biện pháp pháp lý:

  • Yêu cầu Tòa án điều chỉnh quyền thăm nom: Đây là biện pháp pháp lý mạnh mẽ nhất để ngăn chặn hành vi gây tác động xấu của người bố. Người mẹ có quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án xem xét lại và điều chỉnh quyết định về quyền thăm nom đã có trước đó, dựa trên căn cứ là việc thực hiện quyền này đang gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển và giáo dục của con.
    • Căn cứ pháp lý: Điều 82 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 quy định về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con. Mặc dù không trực tiếp quy định về việc điều chỉnh quyền thăm nom, nhưng Tòa án có thẩm quyền xem xét toàn diện các yếu tố liên quan đến quyền và lợi ích tốt nhất của con khi giải quyết các vấn đề về hôn nhân và gia đình.
    • Hồ sơ cần nộp: Đơn yêu cầu điều chỉnh quyền thăm nom, bản sao giấy khai sinh của con, bản sao bản án/quyết định ly hôn (nếu có), các chứng cứ thu thập được về việc người bố lạm dụng quyền thăm nom gây tác động xấu đến con.
  • Yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời: Trong trường hợp tình hình nghiêm trọng, người mẹ có thể yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cấm người bố thực hiện quyền thăm nom hoặc hạn chế thời gian, địa điểm, cách thức thăm nom trong thời gian chờ Tòa giải quyết yêu cầu điều chỉnh quyền thăm nom chính thức.
    • Căn cứ pháp lý: Điều 114 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời, trong đó có biện pháp cấm thực hiện hành vi nhất định có thể gây hậu quả nghiêm trọng cho quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
  • Yêu cầu can thiệp từ cơ quan bảo vệ trẻ em: Liên hệ với các cơ quan chức năng như Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội, Tổng đài Quốc gia Bảo vệ Trẻ em 111 để được tư vấn và hỗ trợ can thiệp kịp thời, đặc biệt khi phát hiện các dấu hiệu bạo hành, xâm hại trẻ em.

Các yếu tố Tòa án sẽ xem xét khi điều chỉnh quyền thăm nom:

  • Quyền và lợi ích tốt nhất của con: Đây là nguyên tắc hàng đầu. Tòa án sẽ xem xét mọi yếu tố để đảm bảo quyết định đưa ra là tốt nhất cho sự phát triển toàn diện của con.
  • Tình hình thực tế chăm sóc, giáo dục con của mỗi bên.
  • Tình cảm, nguyện vọng của con (nếu con đủ tuổi nhận thức).
  • Hành vi của người bố trong quá trình thăm nom.
  • Khả năng đảm bảo môi trường sống lành mạnh, ổn định cho con của mỗi bên.

Lời khuyên:

  • Bình tĩnh và kiên trì: Quá trình pháp lý có thể mất thời gian, người mẹ cần giữ bình tĩnh và kiên trì thu thập chứng cứ, theo đuổi vụ việc.
  • Tìm kiếm sự tư vấn pháp lý: Luật sư có kinh nghiệm trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình sẽ cung cấp sự tư vấn chuyên nghiệp, giúp người mẹ hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình, chuẩn bị hồ sơ và các bước tiến hành hiệu quả nhất.
  • Ưu tiên lợi ích của con: Mọi hành động của người mẹ cần đặt lợi ích tốt nhất của con lên hàng đầu.

Việc ngăn chặn hành vi lạm dụng quyền thăm nom là một vấn đề phức tạp và nhạy cảm, đòi hỏi sự phối hợp của nhiều biện pháp pháp lý và thực tế. Người mẹ cần kiên quyết bảo vệ con mình bằng cách thu thập chứng cứ đầy đủ và tìm kiếm sự hỗ trợ từ các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

Điều 123. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội

Điều 123. Giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội

Giao dịch dân sự có mục đích, nội dung vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội thì vô hiệu.

Điều cấm của luật là những quy định của luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định.

Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng.

Đây là một điều khoản vô cùng quan trọng, thể hiện sự can thiệp cần thiết của pháp luật vào sự tự do định đoạt của các chủ thể nhằm bảo vệ trật tự công cộng và các giá trị đạo đức nền tảng của xã hội.

Phân tích khoa học:

Điều 123 BLDS 2015 quy định về một trong những căn cứ chủ yếu dẫn đến sự vô hiệu của giao dịch dân sự: khi mục đích hoặc nội dung của giao dịch đó vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội. Quy định này đặt ra một giới hạn quan trọng cho quyền tự do giao kết hợp đồng và thực hiện các hành vi pháp lý khác, đảm bảo rằng các giao dịch dân sự phải phù hợp với các nguyên tắc pháp lý và đạo đức cơ bản của cộng đồng.

Các yếu tố cấu thành giao dịch dân sự vô hiệu theo Điều 123:

  1. Sự tồn tại của một giao dịch dân sự: Điều này bao gồm mọi hành vi pháp lý mà các chủ thể thực hiện nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự.
  2. Mục đích của giao dịch vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội:
    • Mục đích của giao dịch là kết quả cuối cùng mà các bên mong muốn đạt được khi tham gia vào giao dịch đó. Nếu mục đích này bị pháp luật cấm đoán hoặc đi ngược lại các giá trị đạo đức được xã hội thừa nhận, thì giao dịch sẽ không có hiệu lực. Ví dụ: mục đích của hợp đồng là buôn bán chất ma túy, tổ chức mại dâm…
    • Điều cấm của luật được giải thích rõ trong khoản 2 của Điều 123 là những quy định pháp luật một cách dứt khoát không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Các điều cấm này có thể được quy định trực tiếp trong các điều luật hoặc có thể được suy diễn từ tinh thần và mục tiêu của pháp luật.
    • Đạo đức xã hội được khoản 3 của Điều 123 định nghĩa là những chuẩn mực ứng xử chung trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Đây là một phạm trù rộng, bao gồm các giá trị về nhân phẩm, lương tâm, sự trung thực, lẽ phải, các phong tục, tập quán tốt đẹp và các nguyên tắc đạo lý cơ bản của xã hội. Việc giao dịch trái với những chuẩn mực này sẽ bị coi là vô hiệu. Ví dụ: giao dịch mua bán người, giao dịch mang tính chất bóc lột, xâm phạm nghiêm trọng đến nhân phẩm người khác.
  3. Nội dung của giao dịch vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội:
    • Nội dung của giao dịch là toàn bộ các quyền và nghĩa vụ mà các bên đã thỏa thuận trong giao dịch đó. Nếu bất kỳ quyền hoặc nghĩa vụ nào trong nội dung giao dịch vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội, thì toàn bộ giao dịch có thể bị vô hiệu. Ví dụ: hợp đồng lao động có điều khoản phân biệt đối xử dựa trên giới tính, tôn giáo; hợp đồng mua bán hàng hóa giả mạo nhãn hiệu đã được bảo hộ.

Hậu quả pháp lý:

Theo quy định chung về giao dịch dân sự vô hiệu tại Điều 131 BLDS 2015, giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội sẽ có các hậu quả pháp lý sau:

  • Không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên. Giao dịch được coi như chưa từng tồn tại.
  • Các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Nếu không thể hoàn trả bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền.
  • Bên có lỗi gây thiệt hại phải bồi thường.

Bình luận khoa học:

Điều 123 BLDS 2015 đóng vai trò là một “hàng rào bảo vệ” cho trật tự pháp luật và các giá trị đạo đức cơ bản của xã hội trong lĩnh vực dân sự. Nó thể hiện sự ưu tiên của lợi ích công cộng và các chuẩn mực đạo đức so với nguyên tắc tự do ý chí của các chủ thể trong một số trường hợp nhất định.

Điểm tích cực:

  • Bảo vệ trật tự công cộng và pháp luật: Quy định này đảm bảo rằng các giao dịch dân sự không được phép đi ngược lại những quy định mang tính mệnh lệnh của pháp luật.
  • Duy trì các giá trị đạo đức xã hội: Việc vô hiệu hóa các giao dịch trái đạo đức góp phần bảo vệ và củng cố những chuẩn mực ứng xử tốt đẹp trong cộng đồng.
  • Ngăn ngừa các hành vi tiêu cực: Điều luật này có tính răn đe, ngăn chặn các chủ thể thực hiện các giao dịch có mục đích hoặc nội dung bất hợp pháp hoặc trái với lương tâm xã hội.
  • Tính rõ ràng trong định nghĩa: Việc giải thích rõ ràng về “điều cấm của luật” và “đạo đức xã hội” trong các khoản 2 và 3 của Điều 123 giúp cho việc áp dụng pháp luật được thống nhất và dễ dàng hơn.

Vấn đề cần lưu ý và phân tích sâu hơn:

  • Ranh giới của “đạo đức xã hội”: Mặc dù đã có định nghĩa, nhưng khái niệm “đạo đức xã hội” vẫn có thể mang tính tương đối và thay đổi theo thời gian, địa điểm và sự phát triển của xã hội. Việc xác định một hành vi cụ thể là trái đạo đức xã hội đôi khi đòi hỏi sự đánh giá khách quan và toàn diện từ các cơ quan có thẩm quyền.
  • Mối quan hệ với các quy định vô hiệu khác: Cần phân biệt rõ trường hợp vô hiệu theo Điều 123 với các trường hợp vô hiệu khác như vô hiệu do giả tạo (Điều 122), vô hiệu do vi phạm quy định về hình thức (Điều 117), vô hiệu do người không có năng lực hành vi dân sự (Điều 125)…
  • Tính linh hoạt trong áp dụng: Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền cần có sự linh hoạt trong việc áp dụng Điều 123, cân nhắc đến bối cảnh cụ thể của từng giao dịch và các chuẩn mực đạo đức đang được thừa nhận tại thời điểm và địa điểm giao dịch.

Ý nghĩa thực tiễn:

Điều 123 là một cơ sở pháp lý vững chắc để Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền xem xét tính hợp pháp và đạo đức của các giao dịch dân sự. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết các tranh chấp, đảm bảo rằng các giao dịch trong xã hội được thực hiện trên cơ sở tuân thủ pháp luật và các giá trị đạo đức tốt đẹp. Việc áp dụng đúng đắn điều luật này góp phần xây dựng một môi trường pháp lý lành mạnh và một xã hội văn minh.

Tóm lại, Điều 123 BLDS 2015 là một điều khoản then chốt và mang tính nguyên tắc đạo đức pháp lý cao. Nó không chỉ bảo vệ trật tự pháp luật mà còn hướng đến việc duy trì và phát triển những giá trị đạo đức tốt đẹp trong xã hội thông qua việc kiểm soát nội dung và mục đích của các giao dịch dân sự.

Biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc

Từ ngày 09/09/2016 Chính phủ ban hành Nghị định 136/2016/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 221/2013/NĐ-CP về chế độ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

cainghien

Ảnh minh họa (internet)

Theo đó, đối tượng áp dụng biện pháp nêu trên bao gồm:

– Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, không có nơi cư trú ổn định.

– Người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên, có nơi cư trú ổn định và thuộc một trong các trường hợp sau:

+ Bị chấm dứt thi hành quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy.

+ Trong thời hạn 02 năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy nhưng mà vẫn còn nghiện.

+ Trong thời hạn 01 năm kể từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nghiện ma túy mà vẫn còn nghiện.

Nghị định 136/2016/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 30/10/2016.

 

“Tội đánh bạc” xác định trách nhiệm hình sự sao cho đúng?

     Đặt vấn đề:

“Đánh bạc” hay gọi theo lối dân dã là “Cờ bạc”, đã, đang và vẫn là một vấn nạn thật sự nhức nhối đối với xã hội hiện đại ngày nay. Xã hội càng phát triển, công nghệ càng phát triển thì kéo theo đó là việc đánh bạc và hình thức đánh bạc cũng ngày càng đa dạng và tinh vi. Chúng ta có thể thấy sự hiện diện của đánh bạc ở nhiều nơi từ quán nước, ghế đá hay đến trường học, công sở…với nhiều hình thức từ tá lả, liêng, lốc, xóc đĩa, cá độ,…được thực hiện bởi nhiều phương thức trực tiếp, gián tiếp thông qua Internet hay các phương tiện truyền tin khác. Và đã biết bao nhiêu gia đình tan nát, điêu đứng vì “Đánh bạc”.

Nhận thức được tác hại của “Đánh bạc” đối với xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã dùng nhiều biện pháp như giáo dục, tuyên truyền nhằm hạn chế tác hại của “Đánh bạc” đối với đời sống xã hội. Và một trong những biểu hiện cao nhất, kiên quyết nhất đó là việc thể chế hóa thành quy định pháp luật trong Bộ luật Hình sự. Tại bộ luật Hình sự hiện hành đánh bạc được điều chỉnh bởi hai điều: 248 về “Tội đánh bạc” và 249 về “Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc”. Để giúp những người áp dụng pháp luật có nhận thức đúng đắn và định hướng xử lý chính xác đối với từng dạng, phương thức đánh bạc xảy ra trong xã hội, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành một số văn bản như Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP, Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP và gần đây nhất là Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 01/2010). Có thể nói, với sự ra đời của các văn bản như đã nêu và đặc biệt là Nghị quyết số 01/2010 đã tạo cơ sở pháp lý khá đầy đủ (ở thời điểm hiện tại) để xử lý các hiện tượng liên quan đến “Đánh bạc”. Tuy nhiên, xuất phát từ thực tiễn và qua nghiên cứu về nội dung cũng như kỹ thuật lập pháp thể hiện tại Nghị quyết số 01/2010, người viết đưa ra một vài quan điểm cá nhân để cùng bàn luận như sau:

   danhbac

   Ảnh minh họa

Kỹ thuật lập pháp:

Nghị quyết 01/2010 quy định:

“…Khi xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc cần phân biệt:

a) Trường hợp nhiều người cùng tham gia đánh bạc với nhau thì việc xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc đối với từng người đánh bạc là tổng số tiền, giá trị hiện vật của những người cùng đánh bạc được hướng dẫn tại khoản 3 Điều này;

b) Trường hợp đánh bạc dưới hình thức chơi số đề, cá độ bóng đá, cá độ đua ngựa…

….

Việc xác định số tiền hoặc giá trị hiện vật của người chơi đề, cá độ và của chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc dưới hình thức chơi số đề, cá độ bóng đá, cá độ đua ngựa… như sau:

 Xác định số tiền hoặc giá trị hiện vật của người chơi đề, cá độ dùng đánh bạc

a) Trường hợp người chơi số đề, cá độ có trúng số đề, thắng cược cá độ thì số tiền mà họ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ cộng với số tiền thực tế mà họ được nhận từ chủ đề, chủ cá độ.

b) Trường hợp người chơi số đề, cá độ không trúng số đề, không thắng cược cá độ hoặc bị phát hiện, ngăn chặn trước khi có kết quả mở thưởng thì số tiền mà họ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ.

Xác định số tiền hoặc giá trị hiện vật của chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc

a) Trường hợp có người chơi số đề, cá độ trúng số đề, thắng cược cá độ thì số tiền chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc là toàn bộ số tiền thực tế mà chủ đề, chủ cá độ đã nhận của những người chơi số đề, cá độ và số tiền mà chủ đề, chủ cá độ phải bỏ ra để trả cho người trúng (có thể là một hoặc nhiều người)

b) Trường hợp không có người chơi số đề, cá độ trúng số đề, thắng cược cá độ hoặc bị phát hiện, ngăn chặn trước khi có kết quả mở thưởng, kết quả bóng đá, kết quả đua ngựa… thì số tiền chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà chủ đề, chủ cá độ đã nhận của những người chơi số đề, cá độ.

Vấn đề cần bàn ở đây đó là theo quy định tại điểm a, khoản 4, Điều 1 của Nghị định này có đưa ra khái niệm “cùng tham gia đánh bạc với nhau”. Tại điểm này sử dụng kỹ thuật lập pháp đó là đưa ra một quy định mang tính “định tính” chỉ ra bản chất của hình thức đánh bạc. Nhưng đến điểm b thì kỹ thuật lập pháp được dùng ở đây lại là phương pháp liệt kê mà không chỉ ra bản chất của các hình thức được liệt vào điểm này. Theo người viết, ưu điểm của phương pháp liệt kê tại điểm b là chỉ ra chính xác một số hình thức “Đánh bạc” để người áp dụng pháp luật có thể áp dụng dễ dàng. Tuy nhiên, đó cũng lại chính là hạn chế của phương pháp này. Việc không “định tính” dẫn đến việc khi phát sinh các hình thức đánh bạc có bản chất tương tự thì dễ bị áp dụng pháp luật một cách tùy tiện hoặc sai lầm và gây khó khăn cho người áp dụng pháp luật. Và có thể thấy là đối với cả hai trường hợp được quy định tại điểm a và b, khoản 4, điều 1 này thì vẫn chưa có một sự hướng dẫn, giải thích thật sự rõ ràng nào giúp tránh việc áp dụng pháp luật một cách thiếu thống nhất dẫn đến thiếu sót trong quá trình đấu tranh, xử lý tội phạm.

  1. Về mặt thực tiễn:

Để minh chứng cho quan điểm như đã nêu về vấn đề kỹ thuật lập pháp. Người viết đưa ra một ví dụ như sau:

“Ngày 13/6/2014, Cơ quan CSĐT Công an huyện X bắt quả tang 11 đối tượng có hành vi đánh bạc với hình thức xóc đĩa, thắng với tỷ lệ: 1 x 2. Tại hiện trường vật chứng thu giữ tại chiếu bạc là 4.900.000đ (Bốn triệu chín trăm nghìn đồng), 01 bát, 01 đĩa, 04 quân vị và một số điện thoại và số tiền của từng đối tượng như bảng dưới đây:

Nghi can số Số tiền chơi (VND) Tư cách chơi Ghi chú
1 2.000.000 Chủ cái
2 20.000 Người chơi Thua hết
3 170.000 Người chơi Thua hết
4 250.000 Người chơi Thua hết
5 500.000 Người chơi Thua hết
6 700.000 Người chơi Thua hết
7 120.000 Người chơi Thua hết
8 80.000 Người chơi Thua hết
9 800.000 Người chơi Thua hết
10 150.000 Người chơi Thua hết
11 200.000 Người chơi Thua hết
Tổng        4.990.000

 

Căn cứ trên kết quả tổng hợp từ lời khai, Cơ quan CSĐT nhận thấy đủ lượng theo quy định điều 248 BLHS và xác định đây là trường hợp “cùng tham gia đánh bạc với nhau” theo như quy định tại điểm a, khoản 4, Điều 1 Nghị quyết 01/2010. Có nghĩa là từng đối tượng sẽ phải chịu trách nhiệm với tổng số tiền và hiện vật thu giữ mà chứng minh được là sẽ dùng để đánh bạc. Do đó, Cơ quan CSĐT đã ra quyết định khởi tố bị can đối với 11 đối tượng nêu trên.”

Để xác định xem quyết định khởi tố bị can đối với từng trường hợp, đối tượng cụ thể có phù hợp với quy định của pháp luật không thì cần quay lại vấn đề lý luận đó là phải hiểu thế nào là “cùng tham gia đánh bạc với nhau” và các hình thức đánh bạc tương tự như số đề, cá độ…là như thế nào? Nhưng có thể thấy rằng quy định tại Nghị quyết 01/2010 chưa có hướng dẫn hay cách giải thích rõ ràng về vấn đề này.

Theo quan điểm của người viết đối với trường hợp đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa nêu trên nói riêng thì đây là hình thức đánh bạc mà có 1 con bạc (1 bên, có thể gồm nhiều người) cầm cái (chủ cái) để đánh với các con bạc riêng lẻ khác. Theo luật chơi (nếu không có thỏa thuận khác), các con bạc lẻ tham gia đánh bạc là chỉ đánh với chủ cái và không có sự tương tác, sát phạt lẫn nhau (cũng tương tự như đặt cược đua ngựa) nên đây không phải là loại “cùng tham gia đánh bạc với nhau” mà bản chất của hình thức này là “một người đánh bạc với nhiều người”. Do vậy, cần áp dụng quy định tại điểm b, khoản 4, điều 1 Nghị quyết 01/2010 đối với trường hợp này và việc xác định số tiền dùng để đánh bạc để xác định trách nhiệm hình sự cần áp dụng trong trường hợp này cần áp dụng giống hướng dẫn đối với lô, đề, cá độ…có nghĩa là:

  • Đối với những người đánh bạc riêng lẻ thì số tiền mà họ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà họ đã và sẽ (nếu chứng minh được là sẽ dùng để đánh) bỏ ra để đánh bạc cộng với số tiền thực tế mà họ được nhận từ chủ cái nếu thắng (Cách tính như theo quy định tại tiểu mục 5.1, khoản 5, Điều 1 Nghị quyết 01/2010).
  • Đối với chủ cái thì số tiền chủ cái dùng đánh bạc là toàn bộ số tiền thực tế mà chủ đề, chủ cá độ đã nhận của những người chơi số đề, cá độ và số tiền mà chủ đề, chủ cá độ phải bỏ ra để trả cho người trúng (có thể là một hoặc nhiều người) (Cách tính như theo quy định tại tiểu mục 5.2, khoản 5, Điều 1 Nghị quyết 01/2010).
  1. Góp ý, đề xuất:

Xuất phát từ mong muốn hướng tới sự nhận thức pháp luật thật sự rõ ràng, thống nhất cho vấn đề xác định trách nhiệm hình sự đối với hành vi đánh bạc, nhằm hạn chế việc áp dụng pháp luật thiếu chính xác dẫn đến việc hình sự hóa các quan hệ pháp luật khác, người viết xin đưa ra quan điểm, nhận thức cá nhân đối với các quy định của Nghị quyết 01/2010 và được thể hiện rõ qua quan điểm về phương hướng xử lý đối với ví dụ nêu trên. Và cũng từ việc nhận thức rằng còn một số nội dung chưa thật sự rõ ràng hay thiếu sự hướng dẫn, giải thích cụ thể tại nội dung của Nghị quyết 01/2010, người viết xin đưa ra một vài quan điểm đóng góp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự về “Đánh bạc” như sau:

  • Trước hết, để có cách hiểu thống nhất đảm bảm việc áp dụng pháp luật một cách đúng đắn, không oan sai thì cần phải có hướng dẫn, giải thích cụ thể về các thuật ngữ như “cùng tham gia đánh bạc với nhau” và “một người đánh bạc với nhiều người” như đề xuất bổ sung tại phần kỹ thuật lập pháp.

Người viết đưa ra một số đề xuất giải thích như sau:

  • Cùng tham giam đánh bạc với nhau” là việc các con bạc trong cùng chiếu bạc có sự sát phạt (tương tác) lẫn nhau.
  • Một người đánh bạc với nhiều người” là việc một hoặc một số con bạc (cùng phe) có vai trò trung tâm, đánh bạc (tương tác) với các con bạc tham gia chơi khác. Trong khi đó, các con bạc khác chỉ tương tác đối với riêng con bạc trung tâm mà không có sự tương tác lẫn nhau giữa các con bạc cùng chơi.
  • Để khắc phục hạn chế như đã phân tích về kỹ thuật lập pháp thì cần có văn bản hướng dẫn, bổ sung quy định tại điểm b, khoản 4, Điều 1 theo đó quy định về bản chất mang tính “định tính” của các hình thức đánh bạc như lô, đề, cá độ… đó là việc “một người đánh bạc với nhiều người” sau đó liệt kê một số hình thức điển hình để người áp dụng pháp luật dễ hình dung để áp dụng cho đúng. Ví dụ có thể quy định như sau:

“…

  1. Khi xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc cần phân biệt:
  2. a) Trường hợp nhiều người cùng tham gia đánh bạc với nhau thì việc xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc đối với từng người đánh bạc là tổng số tiền, giá trị hiện vật của những người cùng đánh bạc được hướng dẫn tại khoản 3 Điều này;
  3. b) Trường hợp một người hay một bên đánh bạc với nhiều người ví dụ như hình thức chơi số đề, cá độ bóng đá, cá độ đua ngựa hoặc các hình thức đánh bạc khác có bản chất tương tự…”

Ví dụ được người viết nêu trên là một trong những ví dụ thực tế về cách tư duy xác định trách nhiệm hình sự đối với tội danh “Đánh bạc”. Và do có sự nhận thức và quan điểm xử lý không đồng nhất về vấn đề này nên người viết mạnh dạn trình bày quan điểm cá nhân như trên. Và dù nhận thức pháp luật của người viết có thể đúng hay chưa đúng nhưng với tinh thần cầu thị và hơn cả mong muốn được sự tham gia phân tích của các chuyên gia, các nhà lập pháp về vấn đề này để cho không chỉ người viết mà những nhà áp dụng pháp luật khác có một cách tư duy, cách nhận thức pháp luật nhất quán về vấn đề xác định trách nhiệm hình sự đối với các trường hợp tương tự có thể xảy ra trên thực tế. Từ đó làm nền tảng cho việc áp dụng pháp luật một cách đúng đắn hơn, tránh việc có thể vận dụng quy phạm pháp luật không đúng đắn sau này.

                                                                            Công ty Luật Minh Bạch

“Tham nhũng vặt” , thực tiễn và hậu quả

“Với thực tiễn công tác của mình, tôi cho rằng việc “tham nhũng vặt” vẫn luôn tồn tại và được xem như là một tất yếu khi người dân cần sử dụng các dịch vụ công chính là do một chữ “lợi” – luật sư Trần Tuấn Anh ( Giám đốc công ty Luật Minh Bạch- Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội) phân tích về lý do vì sao tham nhũng vặt vẫn có thể tồn tại trong đời sống hàng ngày.

Luật sư Trần Tuấn Anh - Giám đốc công ty Luật Minh Bạch
Luật sư Trần Tuấn Anh – Giám đốc công ty Luật Minh Bạch

Phân tích sâu hơn, LS Trần Tuấn Anh chia sẻ: Khi đề cập đến tham nhũng vặt, tôi lại liên tưởng đến câu nói phổ biến trong dân gian: “Buôn thất nghiệp, lãi quan viên” để chỉ những người buôn bán nhỏ, nhưng lợi nhuận trên phần vốn là rất lớn.

Ở đây tham nhũng vặt cũng gần gần như vậy. Tuy rằng nó chỉ có 100.000 – 200.000 đồng, thậm chí là 50.000 đồng khi mỗi người sử dụng dịch vụ phải bỏ ra, nhưng nó lại thường diễn ra trong các lĩnh vực mà rất đông người sử dụng dịch vụ. Chính vì vậy nếu tổng kết lại thì số lượng tiền tham nhũng lại không hề “vặt” một chút nào.

Chúng ta có thể điểm qua một số các lĩnh vực mà người sử dụng thường phải “lót tay” mỗi khi sử dụng dịch vụ như: Y tế, dịch vụ hành chính công (cấp mới, thay đổi nội dung giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; đăng ký kinh doanh; xin các loại giấy phép con; xin giấy phép lao động…); dịch vụ hải quan; thuế… hay thậm chí là xin cho con được đi học trường công lập, đúng tuyến; xin được làm công nhân, bảo vệ cũng phải chi một khoản không hề nhỏ với thu nhập của người dân để đạt được mục đích mà đáng ra là quyền của của công dân.

bacsi

Ảnh minh họa (internet)

Tôi chỉ đơn cử trong lĩnh vực đăng ký hoạt động doanh nghiệp tại một địa phương, mỗi hồ sơ bình thường (liên quan đến thành lập mới, thay đổi ĐKKD, giải thể…) để được duyệt hoặc được sửa hồ sơ nhanh (mà như những người trong nghề chuyên đi đăng ký kinh doanh thuê thường hay gọi vắn tắt là để “không bị ăn thông báo”) thì phải lót tay số tiền 200.000 đồng. Như vậy, chúng ta có thể hình dung ra được số tiền “tham nhũng vặt” sẽ lớn như thế nào khi tại địa phương này hàng năm có tới hàng chục nghìn lượt doanh nghiệp sử dụng dịch vụ đăng ký kinh doanh?

Với thực tiễn công tác của mình, tôi cho rằng việc “tham nhũng vặt” vẫn luôn tồn tại và được xem như là một tất yếu khi người dân cần sử dụng các dịch vụ công là do một chữ “lợi”. Hiện tượng tham nhũng vặt này đã tồn tại không biết bao đời nay trong xã hội chúng ta và nó như một lối mòn trong suy nghĩ của người dân khi sử dụng dịch vụ công. Tuy nhiên, muộn còn hơn không, hơn lúc nào hết các cơ quan quản lý cần phải ngay lập tức tiến hành thanh tra, kiểm tra, chấn chỉnh lại hoạt động và cách phục vụ của nền hành chính công; tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người dân để họ hiểu rằng hành vi đó là vi phạm pháp luật, các cơ quan công quyền sinh ra là để phục vụ người dân, phục vụ xã hội. Có làm được như vậy thì người dân mới bớt khổ và bớt đi nỗi lo mỗi khi có việc phải sử dụng đến dịch vụ công ngay trên đất nước của mình.

 

Trách nhiệm của các cơ quan thanh, kiểm tra ở đâu?

Những năm gần đây, số lượng các vụ án tham nhũng không giảm mà có chiều hướng gia tăng với quy mô lớn, tính chất phức tạp và cực kỳ nghiêm trọng với số tiền gây thiệt hại cho nền kinh tế đất nước lên đến hàng ngàn tỷ đồng… Để xảy ra những vụ việc trên, các đối tượng trong vụ án chắc chắn phải đối mặt với những bản án nghiêm khắc nhất của pháp luật.

thanhtra

Ảnh minh họa

Tuy nhiên, nó cũng để lại trong dư luận xã hội câu hỏi lớn về hiệu quả của công tác thanh kiểm tra của các cơ quan chuyên trách. Công tác này vẫn được thực hiện hàng năm và các vụ án trên đều diễn ra trong một thời gian dài, số tài sản lớn vậy mà không thể phát hiện được ngay để ngăn chặn khi mà hậu quả còn chưa lớn.

Phải chăng do trình độ năng lực yếu kém hay do mối quan hệ dẫn đến sự nể nang, khi không còn kiểm soát được mới công bố với bàn dân thiên hạ! Nhưng vụ án tham nhũng, ngoài trách nhiệm của những người gây ra, còn phải xem xét cả trách nhiệm của những cơ quan chuyên trách về thanh- kiểm tra.

Theo đánh giá của Tổ chức Minh bạch quốc tế, Việt Nam thuộc nhóm nước tham nhũng nghiêm trọng. Trong các báo cáo của Đảng, Nhà nước cũng đánh giá tham nhũng là quốc nạn, làm xói mòn lòng tin của nhân dân, đe dọa sự tồn vong của chế độ.

Tham nhũng hiện nay xảy ra ở nhiều lĩnh vực từ quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản, tài chính, ngân hàng, đầu tư xây dựng cơ bản, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp, tư pháp… Tình trạng tham nhũng vặt của cán bộ công chức trong bộ máy công quyền khiến người dân vô cùng bức xúc.

Nguyên nhân của tình trạng trên có nhiều, dưới góc độ của người làm công tác pháp luật, tôi cho rằng một số biện pháp phòng ngừa tham nhũng còn mang tính hình thức, hiệu quả thấp, nhất là việc kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức (lý do cơ bản là chưa công khai kết quả kê khai).

 

Luật Phòng chống tham nhũng (PCTN); Nghị định 59/2013/NĐ-CP ngày 17.6.2013 quy định chi tiết một số điều của luật PCTN, các thông tư của Thanh tra Chính phủ là những công cụ sắc bén để PCTN. Tuy nhiên con người vẫn là yếu tố quyết định. Điều 30, Luật PCTN mới chỉ đề cập tới việc công khai, minh bạch trong công tác tổ chức – cán bộ. Điều đó mới chỉ đáp ứng được yếu tố cần.

Yếu tố đủ quan trọng nhất là phải có quy chuẩn về phẩm chất, năng lực cán bộ cũng như quy chuẩn về việc đánh giá và tuyển chọn cán bộ công chức, viên chức. Trên cơ sở đó loại bỏ được công chức, viên chức yếu kém, tham nhũng để bộ máy Nhà nước trong sạch.

Tư vấn Luật Hôn nhân Gia đình

Dịch Vụ Tư Vấn Luật Hôn Nhân Gia Đình Uy Tín – Luật Minh Bạch

Bạn đang gặp rắc rối trong các vấn đề liên quan đến hôn nhân và gia đình? Bạn cần một đơn vị tư vấn luật chuyên nghiệp, uy tín và giàu kinh nghiệm để giải quyết những vấn đề này một cách nhanh chóng và hiệu quả? Hãy đến với Luật Minh Bạch, nơi bạn có thể tìm thấy sự hỗ trợ pháp lý tốt nhất với đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm và tận tâm.

Với hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn luật hôn nhân gia đình, Luật Minh Bạch đã hỗ trợ hàng nghìn khách hàng giải quyết thành công các vấn đề pháp lý phức tạp. Chúng tôi cam kết mang đến cho bạn dịch vụ tư vấn luật chất lượng cao, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bạn một cách tối ưu.

Tại Sao Nên Chọn Dịch Vụ Tư Vấn Luật Hôn Nhân Gia Đình Của Luật Minh Bạch?

Luật Minh Bạch tự hào là đơn vị hàng đầu trong lĩnh vực tư vấn luật hôn nhân gia đình, với những ưu điểm vượt trội:

  • Kinh nghiệm dày dặn: Hơn 10 năm kinh nghiệm, phục vụ hàng nghìn khách hàng với nhiều vụ việc thành công.
  • Đội ngũ luật sư giàu kinh nghiệm: Luật sư của chúng tôi am hiểu sâu sắc luật pháp và có kinh nghiệm thực tế phong phú trong lĩnh vực hôn nhân gia đình.
  • Tư vấn 24/7: Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe và giải đáp mọi thắc mắc của bạn, bất kể thời gian nào trong ngày.
  • Chi phí minh bạch: Chúng tôi cam kết cung cấp dịch vụ với mức chi phí hợp lý và minh bạch, không có chi phí ẩn.
  • Tư vấn toàn diện: Dịch vụ tư vấn luật của chúng tôi bao gồm mọi khía cạnh của hôn nhân gia đình, từ thủ tục kết hôn, ly hôn, tranh chấp tài sản, quyền nuôi con, đến các vấn đề về thừa kế và các vấn đề phát sinh khác.

Các Dịch Vụ Tư Vấn Luật Hôn Nhân Gia Đình Chính Tại Luật Minh Bạch

Luật Minh Bạch cung cấp một loạt các dịch vụ tư vấn luật hôn nhân gia đình, bao gồm:

  • Tư vấn thủ tục kết hôn: Hướng dẫn chi tiết về các giấy tờ cần thiết, quy trình đăng ký kết hôn, và các vấn đề pháp lý liên quan.
  • Tư vấn ly hôn: Tư vấn về các thủ tục ly hôn đơn phương, ly hôn thuận tình, phân chia tài sản sau ly hôn, và quyền nuôi con.
  • Giải quyết tranh chấp tài sản: Hỗ trợ giải quyết các tranh chấp liên quan đến tài sản chung, tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân.
  • Tư vấn quyền nuôi con: Tư vấn về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ đối với con cái, thủ tục giành quyền nuôi con, và các vấn đề liên quan đến cấp dưỡng nuôi con.
  • Tư vấn về thừa kế: Hỗ trợ tư vấn các vấn đề liên quan đến thừa kế theo pháp luật, thừa kế theo di chúc trong các mối quan hệ gia đình.

Liên Hệ Với Luật Minh Bạch Để Được Tư Vấn Ngay Hôm Nay

Đừng để những vấn đề pháp lý về hôn nhân gia đình làm ảnh hưởng đến cuộc sống của bạn. Hãy liên hệ với Luật Minh Bạch ngay hôm nay để được tư vấn luật chuyên nghiệp và hiệu quả.

Thông tin liên hệ:

  • Điện thoại: 0987 892 333
  • Email: info@luatminhbach.vn
  • Website: luatminhbach.vn
  • Địa chỉ: P703 tầng 7 số 272 Khương Đình, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội

Chúng tôi cam kết mang đến cho bạn dịch vụ tư vấn luật hôn nhân gia đình tốt nhất, giúp bạn giải quyết mọi vấn đề pháp lý một cách nhanh chóng, hiệu quả và tiết kiệm chi phí.

Luật sư nhà đất chuyên nghiệp

Dịch Vụ Luật Sư Nhà Đất Uy Tín, Chuyên Nghiệp Từ Luật Minh Bạch

Bạn đang gặp rắc rối với các vấn đề pháp lý liên quan đến nhà đất? Bạn cần một luật sư nhà đất giàu kinh nghiệm để bảo vệ quyền lợi của mình? Hãy đến với Luật Minh Bạch, chúng tôi cung cấp dịch vụ tư vấn và giải quyết tranh chấp nhà đất uy tín, chuyên nghiệp với hơn 10 năm kinh nghiệm và đã hỗ trợ hàng nghìn khách hàng.

Vì Sao Nên Chọn Dịch Vụ Luật Sư Nhà Đất Của Luật Minh Bạch?

Với đội ngũ luật sư nhà đất giàu kinh nghiệm và am hiểu sâu sắc pháp luật, Luật Minh Bạch cam kết mang đến cho bạn những giải pháp pháp lý tối ưu, hiệu quả và tiết kiệm chi phí nhất:

  • Kinh nghiệm dày dặn: Hơn 10 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tư vấn và giải quyết tranh chấp nhà đất.
  • Luật sư chuyên nghiệp: Đội ngũ luật sư nhà đất được đào tạo bài bản, am hiểu sâu sắc pháp luật.
  • Tư vấn 24/7: Chúng tôi luôn sẵn sàng lắng nghe và hỗ trợ bạn mọi lúc, mọi nơi. Gọi ngay 0987 892 333.
  • Chi phí minh bạch: Chi phí dịch vụ được thông báo rõ ràng, chi tiết trước khi thực hiện.
  • Uy tín và trách nhiệm: Luôn đặt lợi ích của khách hàng lên hàng đầu.

Các Dịch Vụ Luật Sư Nhà Đất Mà Chúng Tôi Cung Cấp

Luật Minh Bạch cung cấp đa dạng các dịch vụ pháp lý liên quan đến nhà đất, bao gồm:

  • Tư vấn pháp luật về mua bán, chuyển nhượng, tặng cho, thừa kế nhà đất.
  • Soạn thảo hợp đồng mua bán, chuyển nhượng, tặng cho, thừa kế nhà đất.
  • Thực hiện thủ tục sang tên, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (Sổ đỏ).
  • Giải quyết tranh chấp nhà đất (tranh chấp quyền sử dụng đất, tranh chấp thừa kế, tranh chấp hợp đồng mua bán…).
  • Đại diện khách hàng tham gia tố tụng tại Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
  • Tư vấn và thực hiện các thủ tục liên quan đến thế chấp, cho thuê nhà đất.
  • Xin cấp phép xây dựng, hoàn công công trình.

Quy Trình Tư Vấn Và Giải Quyết Vụ Việc Nhà Đất Tại Luật Minh Bạch

  1. Tiếp nhận thông tin: Tiếp nhận yêu cầu và thông tin ban đầu từ khách hàng.
  2. Tư vấn sơ bộ: Tư vấn miễn phí qua điện thoại hoặc email để xác định vấn đề và đưa ra hướng giải quyết ban đầu.
  3. Gặp gỡ luật sư: Khách hàng gặp gỡ trực tiếp luật sư nhà đất để trao đổi chi tiết về vụ việc.
  4. Nghiên cứu hồ sơ: Luật sư nghiên cứu hồ sơ và đưa ra đánh giá pháp lý.
  5. Đề xuất giải pháp: Đề xuất các giải pháp pháp lý tối ưu và báo giá chi tiết.
  6. Thực hiện dịch vụ: Luật sư thực hiện các thủ tục pháp lý theo yêu cầu của khách hàng.
  7. Báo cáo tiến độ: Thường xuyên cập nhật tiến độ vụ việc cho khách hàng.

Liên Hệ Với Luật Minh Bạch Để Được Tư Vấn Ngay Hôm Nay!

Đừng để những vấn đề pháp lý về nhà đất gây khó khăn cho bạn. Hãy liên hệ ngay với Luật Minh Bạch để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời:

  • Điện thoại: 0987 892 333
  • Email: info@luatminhbach.vn
  • Website: luatminhbach.vn
  • Địa chỉ: P703 tầng 7 số 272 Khương Đình, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.

Luật Minh Bạch – Uy tín tạo nên thành công! Chúng tôi luôn sẵn sàng đồng hành cùng bạn trên con đường bảo vệ quyền lợi hợp pháp liên quan đến nhà đất.

QUAN ĐIỂM PHÁP LÝ ĐỐI VỚI CHỈ THỊ CÁCH LY TOÀN XÃ HỘI TRONG VÒNG 15 NGÀY VÀ QUYẾT ĐỊNH CÔNG BỐ DỊCH CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ

Tính đến buổi chiều ngày 31/03/2020, số người dương tính với dịch bệnh Covid tại Việt Nam đã lên đến con số trên 200 người. Có thể thấy số người nhiễm bệnh vẫn tăng theo theo từng ngày và chưa có dấu hiệu dừng lại.

Vì vậy, ngay trong ngày 31/03/2020, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã có Chỉ thị số 16/CT-TTg về thực hiện các biện pháp cấp bách nhằm phòng, chống dịch Covid 19. Qua đó, chỉ đạo hạn chế di chuyển, cách ly toàn xã hội trong vòng 15 ngày kể từ ngày 01/04/2020.

Đây là Chỉ thị thứ 07 của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam liên quan đến việc chỉ đạo các biện pháp phòng, chống nhằm đẩy lùi dịch bệnh Covid 19 kể từ ngày 28/01/2020. Các chỉ thị trước đó đã được ban hành bao gồm:

– Ngày 28/1/2020, Chỉ thị số 05/CT-TTg về việc phòng, chống dịch bệnh viêm đường hô hấp do chủng mới của virus corona gây ra;

– Ngày 31/01/2020, Chỉ thị số 06/CT-TTg về việc tăng cường các biện pháp phòng, chống trước các diễn biến phức tạp mới của dịch bệnh viêm đường hô hấp do chủng mới của virus corona gây ra;

– Ngày 25/02/2020, Chỉ thị 10/CT-TTg về việc đẩy mạnh phòng, chống dịch Covid 19;

– Ngày 04/03/2020, Chỉ thị số 11/CT-TTg về các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn của sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch Covid 19;

– Ngày 11/03/2020, Chỉ thị số 13/CT-TTg về việc tiếp tục đẩy mạnh phòng, chống dịch Covid 19 trong tình hình mới;

– Ngày 27/03/2020, Chỉ thị số 15/CT-TTg về quyết liệt thực hiện đợt cao điểm phòng, chống dịch Covid 19;

Theo quy định, những chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ không phải là văn bản quy phạm pháp luật mà là văn bản chỉ đạo công tác phòng, chống bệnh truyền nhiễm theo nhiệm vụ của Chính phủ đã được quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007, “Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác phòng, chống bệnh truyền nhiễm trong phạm vi cả nước”.

Việc liên tục ban hành những chỉ đạo sát sao, khẩn trương của Chính phủ và các Bộ ban ngành cho thấy sự quyết liệt, quyết tâm của họ trong việc đẩy lùi dịch bệnh truyền nhiễm Covid 19 lớn đến mức nào.

Cũng căn cứ theo quy định của Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 và các văn bản hướng dẫn thi hành, đối với dịch bệnh truyền nhiễm nhóm A như Covid 19, chỉ cần có ít nhất một trường hợp người bệnh được chẩn đoán xác định dương tính là đã đủ điều kiện để Bộ Y tế công bố dịch. Trong trường hợp dịch lây lan nhanh từ tỉnh này sang tỉnh khác, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe con người thì Bộ Y tế sẽ đề nghị Thủ tướng Chính phủ công bố dịch.

Theo thông tin mới nhất, trưa ngày 01/04/2020, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chính thức ký Quyết định số 447/QĐ-TTg về việc công bố dịch COVID-19 trên toàn quốc theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Y tế tại Tờ trình số 525/TTr-BYT ngày 31/03/2020.

Tại điều 01 của Quyết định này nêu rõ tên gọi của dịch bệnh, thời gian, địa điểm, nguyên nhân xảy ra dịch bệnh; tính chất, mức độ nguy hiểm của dịch bệnh cũng như các biện pháp phòng, chống dịch theo quy định của pháp luật.

Việc đưa ra quyết định công bố dịch cũng là hành động cụ thể hóa Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ cũng mới ban hành ngay ngày 31/03/2020, có hiệu lực kể từ 00 giờ ngày 01/04/2020 về chỉ đạo cách ly toàn xã hội trong thời gian 15 ngày.

Quyết định được đưa ra trong bối cảnh dịch bệnh Covid 19 đang diễn biến hết sức phức tạp, việc kiểm soát dịch bệnh trở nên khó khăn cũng như ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch bệnh tới đời sống kinh tế, xã hội và sức khỏe con người.

Ngoài ra, hành động trên cũng cho thấy sự khẩn trương, nghiêm túc và nỗ lực của Chính phủ trong việc đẩy lùi dịch bệnh Covid 19, nhằm đưa nền kinh tế đất nước quay trở lại quỹ đạo phát triển vốn có, giúp người dân quay trở lại cuộc sống bình thường trong thời gian sớm nhất.

Theo như phát biểu của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, Trưởng ban chỉ đạo quốc gia về phòng, chống dịch Covid 19 thì ông đề nghị các Bộ ban ngành cũng như người dân phải kỷ luật, quyết liệt hơn nữa trong việc thực hiện các biện pháp phòng, chống đẩy lùi dịch bệnh và phải quyết tâm để không có đến 1.000 ca nhiễm Covid 19 ở Việt Nam.

Nếu tình hình dịch bệnh tiếp tục diễn biến phức tạp theo chiều hướng xấu, thì khả năng cao trong thời gian sắp tới, Thủ tướng Chính phủ sẽ đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội ra nghị quyết ban bố tình trạng khẩn cấp quốc gia về dịch bệnh giống như Mỹ, Italy, Thái Lan, Indonesia và các nước chịu ảnh hưởng nặng nề khác.

Nếu trường hợp này xảy ra, có thể Chính phủ và các Bộ ban ngành sẽ có thể đưa ra các biện pháp cứng rắn, mạnh mẽ hơn trong việc phòng, chống dịch bệnh. Điều này sẽ vô tình khiến cuộc sống của người dân có thể chịu ảnh hưởng và chịu nhiều bất tiện hơn.

Trong giai đoạn cao điểm tòa quốc chống dịch này, các cá nhân, cơ sở kinh doanh dịch vụ có vi phạm quy định về phòng, chống dịch, không thực hiện đúng chỉ đạo gây hậu quả nghiêm trọng sẽ bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. Cụ thể:

Về xử phạt vi phạm hành chính

Với cơ sở kinh doanh:

– Vẫn tiến hành hoạt động khi đã có quyết định đình chỉ kinh doanh. Mức phạt tiền từ 5.000.000 đồng – 10.000.000 đồng.

– Tăng giá bán khẩu trang, nước rửa tay: Mức phạt tiền từ 20.000.000 đồng – 30.000.000 đồng, đồng thời buộc nộp ngân sách nhà nước phần thu lợi bất chính. Căn cứ pháp lý: Điểu 17 Nghị định 109/2013.

Với cá nhân:

– Hành vi không đeo khẩu trang nơi công cộng bị xử phạt vi phạm hành chính với số tiền từ 100.000 đồng – 300.000 đồng. Không đeo khẩu trang dù là quên, vô ý hay vì bất kỳ lý do nào khác thì pháp luật bắt buộc phải biết và chấp hành giống như khi tham gia giao thông vậy. Căn cứ pháp lý: Điểm a, khoản 1, Điều 11 Nghị định 176/2013.

– Hành vi không khai báo, khai báo gian dối bị xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt tiền từ 1.000.000 đồng – 2.000.000 đồng. Căn cứ pháp lý: Điểm a, khoản 2, Điều 11 Nghị định 176/2013.

– Hành vi trốn khỏi khu cách ly: Xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt tiền 2.000.000 đồng – 10.000.000 đồng, đồng thời bị cưỡng chế bắt quay trở lại khu cách ly. Căn cứ pháp lý: Điểm b, khoản 1, điểm b, khoản 2 Điều 10 Nghị định 176/2013.

– Hành vi cố ý tập trung nơi đông người: Xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt tiền 20.000.000 đồng – 30.000.000 đồng. Căn cứ pháp lý: Điểm b, khoản 6, Điều 11 Nghị định 176/2013.

Xử lý hình sự

Đối với những hành vi nếu gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến tính mạng và thiệt hại lớn về tài sản có thể bị xử lý trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015.

Một số hành vi thường gặp có thể bị xử lý hình sự như:

– Chủ cơ sở kinh doanh dịch vụ (Như bar, kara, mát xa, thẩm mỹ,…) thực hiện hoạt động kinh doanh khi đã có quyết định tạm đình chỉ mà gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng trở lên do phát sinh chi phí phòng, chống dịch thì bị xử lý về tội vi phạm quy định về an toàn ở nơi đông người theo quy định tại Điều 295. Mức phạt tù từ 01 đến 12 năm.

– Trốn cách ly, không khai báo, khai báo không đầy đủ, khai báo gian đối với người đã được xác định là nhiễm bệnh thì bị coi là trường hợp thực hiện “hành vi khác làm lây lan dịch bệnh nguy hiểm cho người” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 240 và bị xử lý về tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm cho người. Mức phạt tù từ 01 đến 12 năm.

– Người chưa nhiễm Covid 19 nhưng sống trong khu vực cách ly, phong tỏa mà trốn khỏi khu cách ly, không tuẩn thủ quy định cách ly, không khai báo y tế, khai báo gian dối hoặc không đầy đủ mà gây thiệt hại từ 100.000.000 đồng trở lên do phát sinh chi phí phòng, chống dịch bệnh thì bị xử lý về tội vi phạm quy định về an toàn ở nơi đông người theo quy định tại Điều 295. Mức phạt tù từ 01 đến 12 năm.

– Đăng thông tin không chính thống, sai sự thật về dịch bệnh Covid gây hoang mang dư luận thì bị xử lý về tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông theo quy định tại điều 288. Mức phạt tù từ 06 tháng đến 07 năm.

– Lợi dụng sự khan hiếm hàng hóa để mua vét hàng hóa đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyên công bố là mặt hàng bình ổn giá hoặc định giá nhằm bán lại để thu lợi bất chính thì bị xử lý về tội đầu cơ theo quy định tại Điều 196. Mức phạt tù từ 06 tháng đến 15 năm.

Vì vậy, mỗi người dân cần nâng cao ý thức, thực hiện tốt chỉ đạo của Chính phủ cũng như các Bộ ban ngành để cùng chung tay đẩy lùi Covid 19, cùng đoàn kết đưa Việt Nam tới chiến thắng như Việt Nam đã nhiều lần chiến thắng.

Bài viết mới nhất

video tư vấn

dịch vụ tiêu biểu

Bài viết xem nhiều

dịch vụ nổi bật