Hotline tư vấn: 0243 999 0601
Tư vấn qua email: info@luatminhbach.vn

Điều kiện để nâng bậc lương trước thời hạn

Căn cứ Thông tư số 08/2013/TT-BNV ngày 31/7/2013 của Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện chế độ nâng bậc lương thường xuyên và nâng bậc lương trước thời hạn đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động.

tien-1

Ảnh minh họa

Về điều kiện và chế độ được hưởng lương

Tại Điểm a, Khoản 1, Điều 3 quy định điều kiện và chế độ được hưởng: Đối tượng quy định tại Khoản 1, Điều 1 Thông tư số 08/2013/TT-BNV đạt đủ 2 tiêu chuẩn quy định tại Khoản 2, Điều 2 Thông tư số 08/2013/TT-BNV và lập thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ đã được cấp có thẩm quyền quyết định công nhận bằng văn bản, nếu chưa xếp bậc lương cuối cùng trong ngạch hoặc trong chức danh và tính đến ngày 31 tháng 12 của năm xét nâng bậc lương trước thời hạn còn thiếu từ 12 tháng trở xuống để được nâng bậc lương thường xuyên thì được xét nâng một bậc lương trước thời hạn tối đa là 12 tháng so với thời gian quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 2 Thông tư số 08/2013/TT-BNV.

 

Việc xét nâng bậc lương trước thời hạn

Tại Điểm đ, Khoản 1, Điều 3 về xác định thành tích để xét nâng bậc lương trước thời hạn do lập thành tích xuất sắc: Thành tích để xét nâng bậc lương trước thời hạn được xác định theo thời điểm ban hành quyết định công nhận thành tích đạt được trong khoảng thời gian 6 năm gần nhất đối với các ngạch và các chức danh có yêu cầu trình độ đào tạo từ cao đẳng trở lên và 4 năm gần nhất đối với các ngạch và các chức danh có yêu cầu trình độ đào tạo từ trung cấp trở xuống tính đến ngày 31 tháng 12 của năm xét nâng bậc lương trước thời hạn.

Riêng đối với các cơ sở giáo dục công lập thuộc UBND các huyện, thị xã, thành phố, tiêu chuẩn, cấp độ về lập thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ và thời gian được nâng bậc lương trước thời hạn tương ứng với từng cấp độ thành tích khác nhau của cán bộ, công chức, viên chức và người lao động do người đứng đầu cơ quan, đơn vị quản lý cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trao đổi với cấp ủy và Ban Chấp hành công đoàn cùng cấp quy định cụ thể trong quy chế nâng bậc lương trước thời hạn của từng huyện, thị xã, thành phố.

Căn cứ vào quy định này, cán bộ, công chức, viên chức và người lao động thuộc diện được xét nâng bậc lương trước thời hạn hằng năm do tập thể bình chọn, nhưng mỗi năm không quá 10% tổng số cán bộ, công chức, viên chức và người lao động trong danh sách trả lương của cơ quan, đơn vị.

0.0 sao của 0 đánh giá

Bài viết liên quan

Thủ tục cấp Giấy chứng nhận tổ chức đủ điều kiện hoạt động giám định sở hữu công nghiệp

Cơ quan thực hiện : Sở khoa học và công nghệ 

Yêu cầu : 

Điều kiện thành lập Tổ chức giám định:

– Có nhân lực, cơ sở vật chất – kỹ thuật đáp ứng yêu cầu đối với tổ chức hoạt động giám định theo quy định của pháp luật;

– Có chức năng thực hiện hoạt động giám định về sở hữu công nghiệp được ghi nhận trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động;

– Người đứng đầu tổ chức hoặc người được người đứng đầu tổ chức ủy quyền có Thẻ giám định viên sở hữu công nghiệp.

Tổ chức giám định sở hữu công nghiệp chỉ được thực hiện hoạt động giám định trong lĩnh vực đã đăng ký hoạt động.

Các thức thực hiện : 

– Nộp hồ sơ trực tiếp đến Sở Khoa học và Công nghệ hoặc qua đường bưu điện.

+ Trường hợp nộp hồ sơ trực tiếp tại Sở Khoa học và Công nghệ, các tài liệu quy định trong thành phần hồ sơ chưa được chứng thực từ bản chính, tổ chức, cá nhân phải xuất trình bản chính để đối chiếu.

+ Trường hợp được gửi qua đường bưu điện, các tài liệu quy định trong thành phần hồ sơ, tổ chức cá nhân phải nộp bản sao đã được chứng thực từ bản chính.

– Thời gian tiếp nhận và trả kết quả hồ sơ: Vào ngày làm việc trong tuần từ thứ hai đến thứ sáu (trừ thứ bảy, chủ nhật, ngày nghỉ lễ).

+ Sáng: Từ 07 giờ đến 11 giờ.

+ Chiều: Từ 13 giờ đến 17 giờ.

Thành phần hồ sơ : 

(1) Tờ khai (02 bản);

(2) Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (đối với doanh nghiệp), Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã), Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động khoa học và công nghệ (đối với đơn vị sự nghiệp là tổ chức khoa học và công nghệ), Quyết định thành lập và Giấy đăng ký hoạt động (nếu pháp luật quy định phải đăng ký hoạt động – đối với đơn vị sự nghiệp không phải là tổ chức khoa học và công nghệ) hoặc Giấy đăng ký hoạt động đối với tổ chức hành nghề luật sư (xuất trình bản chính để đối chiếu, trừ trường hợp bản sao đã được chứng thực);

(3) Bản sao quyết định tuyển dụng hoặc hợp đồng lao động giữa tổ chức và giám định viên sở hữu công nghiệp hoạt động cho tổ chức (xuất trình bản chính để đối chiếu, trừ trường hợp bản sao đã được chứng thực);

(4) Bản sao chứng từ nộp phí, lệ phí (trường hợp nộp phí, lệ phí qua dịch vụ bưu chính hoặc nộp trực tiếp vào tài khoản của Sở Khoa học và Công nghệ).

Lệ phí : 

– Lệ phí cấp Giấy chứng nhận tổ chức giám định sở hữu công nghiệp: 250.000 đồng.

– Phí thẩm định hồ sơ yêu cầu cấp Giấy chứng nhận tổ chức giám định sở hữu công nghiệp: 250.000 đồng.

– Lệ phí công bố Quyết định ghi nhận tổ chức giám định sở hữu công nghiệp: 150.000 đồng.

– Lệ phí đăng bạ Quyết định ghi nhận tổ chức giám định sở hữu công nghiệp: 150.000 đồng.

Thời hạn giải quyết : 30 ngày kể từ ngày nộp hồ sơ hợp lệ 

Những chính sách mới nổi bật bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01 – 10/9/2016.

1.Hỗ trợ 15kg gạo/tháng cho mỗi học sinh đặc biệt khó khăn

 Từ ngày 01/9/2016, Nghị định 116/2016/NĐ-CP quy định chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở xã, thôn đặc biệt khó khăn sẽ bắt đầu có hiệu lực.

Theo đó, mức hỗ trợ mới đối với các đối tượng được hưởng chính sách nêu trên như sau:

– Hỗ trợ tiền ăn bằng 40% mức lương cơ sở/tháng/học sinh, tiền nhà bằng 10% mức lương cơ sở/tháng/học sinh nếu phải tự túc chỗ ở và 15kg gạo/tháng/học sinh (các mức hỗ trợ không quá 9 tháng/năm/học sinh).

– Trường phổ thông dân tộc bán trú tổ chức nấu ăn tập trung cho học sinh được hỗ trợ kinh phí phục vụ việc nấu ăn cho học sinh theo định mức khoán kinh phí tối thiểu bằng 135% mức lương cơ sở/01 tháng/30 học sinh.

(Số dư từ 15 học sinh trở lên được tính thêm một lần định mức; mỗi trường được hưởng không quá 05 lần định mức/01 tháng và không quá 9 tháng/01 năm).

2.Quy định về kỳ thi thăng hạng của viên chức TNMT

Thông tư liên tịch 13/2016/TTLT-BTNMT-BNV quy định về kỳ thi thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành tài nguyên – môi trường (TNMT) sẽ có hiệu lực từ ngày 01/9/2016.

Theo đó, viên chức chuyên ngành TNMT được miễn thi môn ngoại ngữ khi có 01 trong các điều kiện sau:

– Từ đủ 55 tuổi trở lên đối với nam và từ đủ 50 tuổi trở lên đối với nữ tính đến thời điểm thông báo nộp hồ sơ dự thi;

– Đang làm việc ở vùng dân tộc thiểu số, có chứng chỉ đào tạo tiếng dân tộc thiểu số do cơ sở đào tạo cấp theo thẩm quyền;

– Là người dân tộc thiểu số đang làm việc ở vùng dân tộc thiểu số;

– Có bằng tốt nghiệp đại học thứ hai là bằng ngoại ngữ;

– Có bằng tốt nghiệp theo trình độ đào tạo hoặc ở trình độ cao hơn so với quy định của tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp thi thăng hạng mà học tập ở nước ngoài hoặc học bằng tiếng nước ngoài ở Việt Nam.

Ngoài ra, Thông tư liên tịch 13 còn quy định viên chức được miễn thi môn tin học nếu đã tốt nghiệp từ trung cấp chuyên ngành công nghệ thông tin trở lên.

Thế nào là sự kiện bất khả kháng trong vi phạm hợp đồng

Định nghĩa sự kiện bất khả kháng chỉ được quy định chung trong Bộ luật dân sự năm 2015. Theo khoản 1 điều 156 Bộ luật dân sự, sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.

          Theo đó, để được xem là bất khả kháng thì một sự kiện cần thỏa mãn 3 nội dung sau:

   Thứ nhất, là sự kiện khách quan xảy ra sau khi ký hợp đồng. Tức là sự  kiện nằm ngoài phạm vi kiểm soát của bên vi phạm hợp đồng như các hiện tượng tự nhiên: bão, lụt, sóng thần… các sự kiện chính trị, xã hội: đình công, bạo loạn, chiến tranh…, ngoài ra còn có các trường hợp như hỏa hoạn phát sinh từ khu vực bên ngoài lan sang và thiêu rụi nhà máy…

      Thứ hai, là sự kiện xảy ra không thể dự đoán trước được. Năng lực đánh giá xem xét một sự kiện có xảy ra hay không được xét từ vị trí của một thương nhân bình thường chứ không phải một chuyên gia chuyên sâu. Ví dụ khu vực nhà máy của bên vi phạm thường xuyên có bão vào mùa mưa nhưng do tính bất ngờ và khó kiểm soát của bão nên việc dự đoán bão có xảy ra hay không đối với một thương nhân là không thể lường trước được. (chiến tranh, bạo loạn, đình công… hay các thảm họa thiên nhiên khác)

      Thứ ba, là sự kiện xảy ra mà hậu quả để lại không thể khắc phục được dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép, là sự kiện xảy ra mà chúng ta không thể tránh được về mặt hậu quả. Tức là sau khi bên vi phạm đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết những vẫn không khắc phục được hậu quả thì mới đáp ứng điều kiện này. Tuy nhiên, nếu như bên vi phạm không thực hiện các biện pháp cần thiết để khắc phục hậu quả nhưng chứng minh được rằng dù có hành động vẫn không thể khắc phục được hậu quả thì xem như đã thỏa mãn điều kiện này.

Hàng loạt tài khoản Facebook ‘bay màu’: Chủ tài khoản có ‘nguy cơ’ bị xử lý hình sự

Hàng loạt tài khoản Facebook bị khóa do chia sẻ các clip nhạy cảm, có nội dung khiêu dâm hoặc đồi trụy. Luật sư Trần Tuấn Anh nhấn mạnh rằng hành vi chia sẻ các nội dung này vi phạm thuần phong mỹ tục và pháp luật Việt Nam. Ông cảnh báo rằng việc phát tán các clip nhạy cảm, đặc biệt là liên quan đến trẻ em, có thể bị xử lý hình sự theo Điều 288 và Điều 326 của Bộ luật Hình sự với mức phạt lên đến 15 năm tù.

Luật sư Tuấn Anh cũng lưu ý rằng người dùng mạng xã hội cần coi trọng trách nhiệm cá nhân, xem xét kỹ lưỡng các hành động trực tuyến như những hành động trong đời thực. Ông nhấn mạnh: “Hành vi ảo, hậu quả thật”, khuyến cáo mọi người cần cẩn trọng trong tương tác trực tuyến để tránh bị khóa tài khoản hoặc phải chịu hậu quả pháp lý nghiêm trọng.

Mời bạn đọc thêm tại đây.

Trong trường hợp có yêu cầu tư vấn về pháp luật, quý khách vui lòng liên hệ theo số điện thoại: 0986.931.555 – Luật sư Trần Tuấn Anh, Giám đốc Công ty Luật Minh Bạch sẽ tư vấn miễn phí cho quý khách. Trân trọng.

Giải đáp pháp luật liên quan đến vấn đề thừa kế

Về vấn đề pháp luật liên quan đến thừa kế mà bạn đọc thắc mắc và đã gửi câu hỏi về cho Luật Minh Bạch, sau đây Luật Minh Bạch sẽ tổng hợp và trả lời những câu hỏi mà độc giả đã gửi về cho Luật Minh Bạch.

_________________________________________________

Câu hỏi thứ nhất: Chú tôi trước đây sinh sống ở LB Nga nhưng đã mất do tai nạn lao động. Hiện ông có tổng tài sản là 5 tỷ đồng. Ông có một người vợ hợp pháp và hai con gái. Ngoài ra ông còn có một người con riêng. Người con riêng này của ông không có khả năng lao động. Chú tôi mất đột xuất không để lại di chúc vậy thì số tài sản của chú tôi sẽ được phân chia như thế nào?

 

Với câu hỏi trên, Luật Minh Bạch xin được trả lời như sau

Theo quy định của pháp luật, về nguyên tắc nếu tài sản ở đâu thì phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước đó. Vì vậy nếu tài sản ở LB Nga thì phải căn cứ pháp luật LB Nga để chia di sản thừa kế. Còn nếu di sản trên ở Viêt Nam thì xử lý như sau:

Trường hợp ông chú của bạn chết mà không để lại di chúc thì trường hợp này sẽ được chia thừa kế theo pháp luật (điểm a, khoản 1, Điều 650 BLDS 2015).

Những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết đều được hưởng thừa kế phần di sả bằng nhau (Điều 651 BLDS 2015). Trong trường hợp trên chỉ đề cập đến người vợ hợp pháp, 02 người con gái và 01 người con riêng thì những người này đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất

Một vấn đề đặt ra nữa là người con riêng bị mất khả năng lao động thì liệu người con riêng của ông chú không có khả năng lao động thì có được quyền hưởng di sản không? Căn cứ theo Điều 610 BLDS 2015 thì mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền hưởng di sản cả theo di chúc lẫn theo pháp luật.

Như vậy, không phụ thuộc vào khả năng lao động, những người thừa kế theo pháp luật đều có quyền hưởng di sản thừa kế.

 

Câu hỏi thứ hai:Tôi là Nguyễn Hải Yến, hiện đang sinh sống ở Canada. Tôi có một số câu hỏi muốn được tư vấn như sau: Trong mọi trường hợp, người không có quyền hưởng di sản thừa kế thì không được hưởng thừa kế đúng hay sai? Quan hệ thừa kế chỉ hình thành khi người để lại di sản thừa kế chết là đúng hay sai? Lỗi chỉ được đặt ra đối với người có khả năng nhận thức và kiểm soát hành vi phải không ạ?

 

Với câu hỏi trên Luật Minh Bạch xin được trả lời như sau:

Thứ nhất, đối với câu hỏi: Trong mọi trường hợp, người không có quyền hưởng di sản thừa kế theo quy định tại Điều 651 Bộ luật Dân sự 2015 như là những người bị kết án về tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, có hành vi ngược đãi, hành hạ người đề lại di sản,… thì không được hưởng thừa kế là không chính xác. Những trường hợp không có quyền hưởng di sản thừa kế có thể vì nhiều lý do có thể là có hành vi trái pháp luật, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm của người để lại di sản và những người thừa kế khác hay có những hành vi không xứng đáng với bổn phận. Khi này, pháp luật sẽ có những quy định tước đi quyền hưởng di sản của những trường hợp này.

Tuy nhiên, nhằm đảm bảo nguyên tắc tự do ý chí giữa các bên trong quan hệ thừa kế, tôn trọng ý chí của người để lại di sản nên những người nằm trong diện không được hưởng di sản vẫn có quyền được hưởng di sản chỉ với điều kiện nếu như người để lại di sản đồng ý để lại di sản cho những người đó (khoản 2 Điều 621 BLDS 2015).

Thứ hai, quan hệ thừa kế chỉ hình thành khi người để lại di sản chết (có thể hiểu đẩy đù là chết về mặt sinh học hoặc chết về mặt pháp lý) là đúng, thời điểm người để lại di sản chết (về mặt sinh học) hoặc bị tòa án tuyên là đã chết (chết về mặt pháp lý) gọi là thời điểm mở thừa kế. Quan hệ thừa kế chỉ phát sinh khi có người chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết, mặc dù thời điểm còn sống, các bên trong quan hệ thừa kế có thể phát sinh di chúc tuy nhiên, văn bản này chỉ có hiệu lực đối với các bên khi người để lại di chúc hoặc di sản chết. Vì vậy, chỉ khi người để lại di sản chết, quan hệ thừa kế mới hình thành.

Thứ ba, tôi hiểu ý bạn hỏi về yếu tố lỗi của các hành vi được quy định trong trường hợp của người không được hưởng quyền thừa kế. Đúng như vậy, các trường hợp không được hưởng thừa kế phải có lỗi cố ý khi thực hiện các hành vi như ngược đãi, xâm phạm tính mạng, sức khỏe người để lại di sản hoặc những người thừa kế khác hay lừa dối, cưỡng ép, giả mạo di chúc,… và chỉ những người có khả năng nhận thức, kiểm soát thì mới coi hành vi đó là cố ý. Vì vậy, yếu tố lỗi sẽ được đặt ra đối với những người có thể kiểm soát, nhận thức hành vi của mình.

 

Câu hỏi thứ ba: Cha và mẹ tôi chung sống với nhau có 3 người con (tôi là con trai và sau tôi là hai em gái). Trong thời gian cha và mẹ tôi chung sống có tạo ra được một số tài sản gồm đất ở và nhà. Nay cha tôi mất không để lại di chúc. Khi tôi ở nước ngoài thì mẹ tôi cùng hai người con gái bán đất mà không có sự đồng ý của tôi. Khi vắng mặt tôi mà thủ tục mua bán vẫn diễn ra bình thường. Như vậy có hợp pháp hay không?

 

Với câu hỏi trên Luật Minh Bạch xin được trả lời như sau:

Trong trường hợp của bạn, phần di sản của bố bạn trong khối tài sản chung của cha mẹ bạn khi không để lại di chúc cần phải được phân chia theo quy định phân chia thừa kế pháp luật, khi này phần di sản của bố bạn sẽ được chia đều thành bốn phần cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất bao gồm: cha mẹ, vợ, con của người để lại di sản. Trong trường hợp của bạn cần phải xem xét những người thuộc hàng thừa kế bao gồm những người còn sống tại thời điểm bố bạn mất, như thế ngoài mẹ, hai người em gái và bạn thì ông bà bạn còn sống hay không? Bố bạn có con nuôi, con riêng hay không để vì những người này đều thuộc hàng thừa kế thứ nhất và được hưởng phần di sản là như nhau.

Tiếp đó, khi mẹ và 2 người chị em gái bán phần tài sản chung có phần của bạn mà không có sự đồng ý của bạn thì giao dịch đó không hợp pháp bạn cũng có phần sở hữu trong khối di sản mà bố bạn để lại cho bạn, vì vậy việc mua bán đó là không hợp pháp và có thể bị tuyên vô hiệu. Tuy nhiên, nếu tài sản đó đã được bên thứ ba ngay tình đăng ký sang tên đổi chủ theo quy định của pháp luật thì bạn sẽ không thể đòi lại tài sản từ họ mà phải đòi những người có lỗi trong giao dịch này đó là mẹ và chị em gái bạn.

Điều 163 BLDS 2015 cũng nêu rõ rằng không ai có thể bị hạn chế quyền, tước đoạt trái luật quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản.

Khoản 2 Điều 164 BLDS 2015 cũng quy định chủ sở hữu tài sản có quyền yêu cầu tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác buộc người có hành vi xâm phạm về tài sản phải trả lại tài sản, chấm dứt hành vi trái pháp luật.

 

Câu hỏi thứ tư: Ba tôi đã mất nhưng không để lại di chúc, còn người vợ sau của ba tôi thì có giấy đăng kí kết hôn nhưng đang định cư ở nước ngoài. Vậy khi ba tôi mất là người vợ sau này có toàn quyền với tài sản của ba tôi không? Ví dụ nếu muốn sang tên xe ba tôi đứng tên hay làm lại giấy tờ xe đó có cần tôi đứng ra làm giấy tờ gì không ? Hay chỉ người vợ sau của ba tôi là toàn quyền?

 

Với câu hỏi trên Luật Minh Bạch xin được trả lời như sau:

Việc cha của bạn mất mà không có di chúc thì phần di sản để lại sẽ phải chia thừa kế theo quy định của pháp luật.

Việc chia thừa kế theo pháp luật sẽ phải căn cứ theo một trong những yếu tố cơ bản là về hàng thừa kế, là chia đều cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất bao gồm cha mẹ, vợ, con của người để lại di sản. Và những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất này để có quyền được hưởng như nhau phần di sản mà bố bạn để lại.

Vì vậy, nếu những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bố bạn còn sống thì mẹ kế của bạn không có toàn quyền với di sản mà cha bạn để lại.

Đối với di sản của bố mạng ví dụ như chiếc xe, việc sang tên xe bố của bạn đã mất thì khi phân chia di sản sẽ không phải là bạn tiến hành sang tên hoặc mẹ kế của bạn tiến hành sang tên. Mà việc đầu tiên là phần di sản này phải được phân chia cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất, sau khi thực việc việc phân chia thừa kế xong mới xác định được quyền sở hữu tài sản mà cụ thể là cái xe này thuộc quyền sở hữu của ai thì người đó mới có quyền sang tên.

Về cách thức phân chia di sản thì theo khoản 2 Điều 660 BLDS 2015 “Những người thừa kế có quyền yêu cầu phân chia di sản bằng hiện vật; nếu không thể chia đều bằng hiện vật thì những người thừa kế có thể thỏa thuận về việc định giá hiện vật và thỏa thuận về người nhận hiện vật; nếu không thỏa thuận được thì hiện vật được bán để chia.”

____________________________________________________

Trên đây là quan điểm trả lời của Luật Minh Bạch. Bài viết trên chỉ mang tính chất tham khảo, để được hỗ trợ và tư vấn cụ thể hơn, quý bạn đọc vui lòng liên hệ theo địa chỉ:

Công ty Luật Minh Bạch

Phòng 703, số 272 Khương Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội

Hotline: 1900.6232

Email: luatsu@luatminhbach.vn

Trân trọng!

Dịch vụ đăng ký mã số mã vạch tại Hải Phòng

Bạn muốn thực hiện thủ tục đăng ký mã số mã vạch trên hàng hóa để xuất khẩu, bán hàng trong siêu thị hay các cửa hàng tiện ích có sử dụng máy quét mã vạch…

Luật Minh Bạch chuyên cung cấp dịch vụ đăng ký mã số mã vạch uy tín, chuyên nghiệp, nhanh chóng. Luật Minh Bạch được coi là một trong những đơn vị cung cấp dịch vụ đăng ký mã số mã vạch hàng đầu tại Hải Phòng. Với những chuyên viên nhiều kinh nghiệm tư vấn và đăng ký mã số mã vạch, chúng tôi sẽ cung cấp cho Khách hàng một dịch vụ toàn diện về mã số mã vạch như sau:

Phạm vi tư vấn dịch vụ đăng ký mã số mã vạch tại Hải Phòng:

Tư vấn về việc việc đăng ký mã số mã vạch cho sản phẩm, sử dụng mã số mã vạch cho sản phẩm;

Tư vấn việc xử lý vi phạm, yêu cầu xử lý và bồi thường thiệt hại khi mã số mã vạch bị làm giả, sử dụng trái phép;

Tư vấn soạn thảo hồ sơ đăng ký mã số mã vạch tại Hải Phòng cho khách hàng;

Thay mặt khách hàng thực hiện thủ tục đăng ký mã số mã vạch tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

Thay mặt khách hàng nhận kết quả và bàn giao lại cho Khách hàng;

Hồ sơ đăng ký mã số mã vạch tại Hải Phòng bao gồm:

Bản đăng ký mã số mã vạch (02 bản) (theo mẫu Luật Minh Bạch soạn);

Danh mục dản phẩm đăng ký mã số mã vạch (02 bản) (theo mẫu Luật Minh Bạch soạn);

Biên nhận hồ sơ đăng ký mã số mã vạch (01 bản) (theo mẫu);

Bản sao chứng thực Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, chứng nhận đầu tư (02 bản).

Phí đăng ký mã số mã vạch gồm có phí dịch vụ và phí duy trì, cụ thể:

Phí dịch vụ đăng ký mã số mã vạch: 2.500.000 VND

Phí duy trì được quy định như sau:

+ Mã doanh nghiệp GS1 loại 10 số:

Phí duy trì 500.000VNĐ/năm (Sử dụng được dưới 100 loại sản phẩm)

+ Mã doanh nghiệp GS1 loại 9 số:

Phí duy trì 800.000VNĐ/năm (Sử dụng được dưới 1000 loại sản phẩm)

+ Mã doanh nghiệp GS1 loại 8 số:

Phí duy trì 1.500.000VNĐ/năm (Sử dụng được dưới 10.000 loại sản phẩm)

+ Mã doanh nghiệp GS1 loại 7 số:

Phí duy trì 2.000.000VNĐ/năm (Sử dụng được dưới 100.000 loại sản phẩm)

Các lưu ý cho doanh nghiệp đăng ký mã số mã vạch

  1. Khi đăng kí sử dụng, doanh nghiệp phải đóng phí đăng kí và phí duy trì cho năm đầu tiên.
  2. Doanh nghiệp có thể nộp phí bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản đến cơ quan nhà nước
  3. Phí duy trì sử dụng mã số mã vạch phải nộp trước 30/6 hàng năm
  4. Khi có sự thay đổi về tên công ty, địa chỉ công ty hoặc thất lạc Giấy chứng nhận sử dụng mã số mã vạch (MSMV), đề nghị doanh nghiệp làm thủ tục để thay đổi.
  5. Khi doanh nghiệp không muốn tiếp tục sử dụng mã số mã vạch (MSMV), đề nghị doanh nghiệp làm thủ tục xin ngừng sử dụng mã số mã vạch (MSMV).

Để được tư vấn chi tiết dịch vụ xin vui lòng gọi: 0987 892 333 hoặc Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900 6232

 

6 hành vi bị nghiêm cấm về an ninh mạng

Luật an ninh mạng sẽ có hiệu lực vào ngày 01/01/2019 tới đây, An ninh mạng là sự bảo đảm hoạt động trên không gian mạng không gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Theo Điều 8 của luật này thì các hành vi sau sẽ bị nghiêm cấm : 

1. Hành vi sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội bao gồm:

a) Đăng tải, phát tán thông tin trên không gian mạng có nội dung quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 16 và hành vi quy định tại khoản 1 Điều 17 của Luật này;

b) Chiếm đoạt tài sản; tổ chức đánh bạc, đánh bạc qua mạng Internet; trộm cắp cước viễn thông quốc tế trên nền Internet; vi phạm bản quyền và sở hữu trí tuệ trên không gian mạng;

c) Giả mạo trang thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức, cá nhân; làm giả, lưu hành, trộm cắp, mua bán, thu thập, trao đổi trái phép thông tin thẻ tín dụng, tài khoản ngân hàng của người khác; phát hành, cung cấp, sử dụng trái phép các phương tiện thanh toán;

d) Tuyên truyền, quảng cáo, mua bán hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục cấm theo quy định của pháp luật;

đ) Hướng dẫn người khác thực hiện hành vi vi phạm pháp luật;

e) Hành vi khác sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

2. Thực hiện tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, tội phạm mạng; gây sự cố, tấn công, xâm nhập, chiếm quyền điều khiển, làm sai lệch, gián đoạn, ngưng trệ, tê liệt hoặc phá hoại hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia.

3. Sản xuất, đưa vào sử dụng công cụ, phương tiện, phần mềm hoặc có hành vi cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng viễn thông, mạng Internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, phương tiện điện tử; phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng viễn thông, mạng Internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, phương tiện điện tử; xâm nhập trái phép vào mạng viễn thông, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu, phương tiện điện tử của người khác.

4. Chống lại hoặc cản trở hoạt động của lực lượng bảo vệ an ninh mạng; tấn công, vô hiệu hóa trái pháp luật làm mất tác dụng biện pháp bảo vệ an ninh mạng.

5. Lợi dụng hoặc lạm dụng hoạt động bảo vệ an ninh mạng để xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc để trục lợi.

6. Hành vi khác vi phạm quy định của Luật này.

=>Người nào có hành vi vi phạm quy định của Luật này thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.

Thủ tục chuyển địa điểm công ty khác quận

Câu hỏi :

Do nhu cầu kinh doanh, công ty tôi muốn chuyển địa chỉ trụ sở đến nơi khác, nhưng khác quận huyện, tôi muốn hỏi công ty tôi cần phải làm những gì và chuẩn bị những thủ tục gì?

Trả lời: 

Cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi câu hỏi về cho chúng tôi, luật sư xin tư vấn cho bạn như sau:

Công ty bạn cần thực hiện thủ tục với cơ quan đăng ký kinh doanh và với cơ quan thuế

  1. Với cơ quan thuế

1.1. Cơ quan thuế chuyển đi:

– Tờ khai điều chỉnh thuế (Mẫu 08-MST): 2 bản chính
– Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh  : 2 bản photo
– Báo cáo hóa đơn quý đến thời điểm hiện tại : 1 bản chính, 2 bản photo

– Giấy chứng nhận đăng ký thuế

– Công văn gửi thuế về việc chốt thuế xin chuyển quận

– Biên bản họp, quyết định của công ty về việc thay đổi trụ sở

-Nếu công ty không muốn sử dụng hóa đơn nữa thì hủy hóa đơn: nộp thông báo kết quả hủy hóa đơn kèm theo báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn (liên hệ đội Quản lý Ấn chỉ để được đóng dấu)

-Còn muốn tiếp tục sử dụng số hóa đơn còn lại nộp báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn BC26/AC và phụ lục BK01/AC  (liên hệ đội Quản lý Ấn chỉ để được đóng dấu)

=> kết quả : Mẫu 09, mẫu 10 về việc tổng hợp tình hình nộp thuế của doanh nghiệp đến thời điểm xin chuyển quận (huyện) 

1.2. Cơ quan thuế chuyển đến : ( sau khi thực hiện thủ tục thay đổi đăng ký kinh doanh với cơ quan đăng ký kinh doanh)

 – Tờ khai điều chỉnh thuế

– Bản sao giấy đăng ký kinh doanh mới

 – Bộ gốc hồ sơ bên chi cục thuế chuyển đi trả về

– 2 bản báo cáo sử dụng hóa đơn và phụ lục

– Nếu công ty muốn tiếp tục sử dung hóa đơn thì  nộp 02 mẫu Thông báo điều chỉnh thông tin (TB04/AC) để tiếp tục sử dụng số hóa đơn còn lại

– Còn hủy hóa đơn cũ rồi thì tiến hành đặt in hóa đơn mới và thông báo phát hành hóa đơn với chi cục thuế chuyển đến để sử dụng hóa đơn

2.Với cơ quan  đăng ký kinh doanh, sau khi hoàn thành thủ tục với cơ quan thuế nơi chuyển đi tiến hành thủ tục thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh ( thay đổi trụ sở chính của công ty)

Thành phần hồ sơ bao gồm :

–        Thông báo thay đổi nôi dung đăng ký kinh doanh

–        Quyết định của công ty về việc thay đổi trụ sở doanh nghiệp

–        Biên bản họp của công ty về việc thay đổi trụ sở

–        Giấy giới thiệu

–          Mẫu 09, mẫu 10 về việc tổng hợp tình hình nộp thuế của doanh nghiệp đến thời điểm xin chuyển quận (huyện) 

 

 

 

 

 

Xin giấy phép lao động trong trường hợp di chuyển nội bộ doanh nghiệp

Câu hỏi : 

Xin chào luật sư !

công ty em cần làm giấy phép lao động cho Đài loan sang làm việc tại Việt Nam với vị trí giám đốc kinh doanh ( vị trí này do công ty mẹ tại đài loan điều động sang công ty con tại việt nam ) lương của vị trí giám đốc kinh doanh này trả tại công ty mẹ  .vậy nhờ luật sư tư vấn giúp em , bên em phải làm nhứng thủ tục gì ? và các giấy tờ liên quan ?

Trả lời: Cảm ơn bạn đã tin tưởng Luật Minh Bạch và gửi câu hỏi về cho chúng tôi, luật sư xin tư vấn cho bạn như sau : 

Người lao động nước ngoài di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp là nhà quản lý, giám đốc điều hành, chuyên gia  lao động kỹ thuật của một doanh nghiệp nước ngoài đã thành lập hiện diện thương mại trên lãnh thổ Việt Nam, di chuyển tạm thời trong nội bộ doanh nghiệp sang hiện diện thương mại trên lãnh thổ Việt Nam và đã được doanh nghiệp nước ngoài tuyển dụng trước đó ít nhất 12 tháng. 
* Các trường hợp người lao động nước ngoài khác không thuộc diện cấp giấy phép lao động, bao gồm:
a) Di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp thuộc phạm vi 11 ngành dịch vụ trong biểu cam kết dịch vụ của Việt Nam vớiTổ chức Thương mại thế giới, bao gồm: kinh doanh, thông tin, xây dựng, phân phối, giáo dục, môi trường, tài chính, y tế, du lịch, văn hóa giải trí và vận tải; ( Nếu người công ty bạn cử sang làm việc thuộc 11 ngành dịch vụ trên thì không thuộc diện cấp giấy phép lao động) 
Trong trường hợp này bạn cần làm hồ sơ để xin xác nhận người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động  
a) Văn bản đề nghị xác nhận người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động; 
b) Danh sách trích ngang về người lao động nước ngoài với nội dung: họ, tên; tuổi; giới tính; quốc tịch; số hộ chiếu; ngày bắt đầu và ngày kết thúc làm việc; vị trí công việc của người lao động nước ngoài; 
c) Các giấy tờ để chứng minh người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động; 
+Văn bản của doanh nghiệp nước ngoài cử người lao động sang làm việc tại hiện diện thương mại của doanh nghiệp nước ngoài đó trên lãnh thổ Việt Nam có nêu vị trí công việc, chức danh công việc và thời gian làm việc;  
+ Văn bản chứng minh người lao động nước ngoài là chuyên gia hoặc lao động kỹ thuật 
+Văn bản chứng minh người lao động nước ngoài đã được doanh nghiệp nước ngoài tuyển dụng ít nhất 12 tháng trước khi được cử sang làm việc tại hiện diện thương mại của doanh nghiệp nước ngoài đó trên lãnh thổ Việt Nam 
bao gồm :  
1.Văn bản xác nhận của người sử dụng lao động về việc đã tuyển dụng người lao động nước ngoài;
2. Hợp đồng lao động;
3. Quyết định tuyển dụng người lao động nước ngoài;
4. Giấy chứng nhận nộp thuế hoặc bảo hiểm của người lao động nước ngoài. 
d) Giấy tờ chứng minh người lao động nước ngoài không thuộc diện cấp giấy phép lao động là 01 bản chụp kèm theo bản gốc để đối chiếu hoặc 01 bản sao có chứng thực, nếu của nước ngoài thì miễn hợp pháp hóa lãnh sự, nhưng phải dịch ra tiếng Việt và chứng thực theo quy định của pháp luật Việt Nam. 
e,Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp hoặc giấy tờ có giá trị pháp lý tương đương; Giấy phép thành lập Văn phòng đại diện; Giấy phép thành lập Chi nhánh do cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp. 
Hệ số lương viên chức chuyên ngành mỹ thuật

banner1

Thông tư liên tịch 07/2016/TTLT-BVHTTDL-BNV quy định viên chức chuyên ngành mỹ thuật được áp dụng Bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ, viên chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước. Cụ thể:

– Chức danh nghề nghiệp họa sĩ hạng I (mã số V.10.08.25) được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A3, nhóm 1 (A3.1) từ hệ số lương 6,20 đến hệ số lương 8,00;

– Chức danh nghề nghiệp họa sĩ hạng II (mã số V.10.08.26) được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A2, nhóm 1 (A2.1) từ hệ số lương 4,40 đến hệ số lương 6,78;

– Chức danh nghề nghiệp họa sĩ hạng III (mã số V.10.08.27) được áp dụng hệ số lương của viên chức loại A1 từ hệ số lương 2,34 đến hệ số lương 4,98;

– Chức danh nghề nghiệp họa sĩ hạng IV (mã số V.10.08.28) được áp dụng hệ số lương của viên chức loại B từ hệ số lương 1,86 đến hệ số lương 4,06.

Thông tư liên tịch 07/2016/TTLT-BVHTTDL-BNV có hiệu lực từ ngày 15/8/2016.

Bỏ thói quen mua bán xe không sang tên đổi chủ

Từ ngày 15/8/2023, quy định mới về việc cấp và thu hồi đăng ký, biển số xe cơ giới có hiệu lực, trong đó biển số xe sẽ gắn liền với người sở hữu, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý phương tiện. Điều này buộc người dân phải thay đổi thói quen mua bán xe mà không sang tên đổi chủ. Luật sư Trần Tuấn Anh nhận định, việc không thực hiện thủ tục sang tên có thể dẫn đến rủi ro pháp lý cho người chủ cũ, khi xe vi phạm pháp luật. Ngoài ra, quy định mới cũng giúp ngăn chặn các hành vi phạm tội liên quan đến việc sử dụng xe không chính chủ, đồng thời tạo điều kiện cho cơ quan chức năng dễ dàng truy xuất thông tin và quản lý vi phạm.

đọc thêm bài viết tại đây 

“Tội đánh bạc” xác định trách nhiệm hình sự sao cho đúng?

     Đặt vấn đề:

“Đánh bạc” hay gọi theo lối dân dã là “Cờ bạc”, đã, đang và vẫn là một vấn nạn thật sự nhức nhối đối với xã hội hiện đại ngày nay. Xã hội càng phát triển, công nghệ càng phát triển thì kéo theo đó là việc đánh bạc và hình thức đánh bạc cũng ngày càng đa dạng và tinh vi. Chúng ta có thể thấy sự hiện diện của đánh bạc ở nhiều nơi từ quán nước, ghế đá hay đến trường học, công sở…với nhiều hình thức từ tá lả, liêng, lốc, xóc đĩa, cá độ,…được thực hiện bởi nhiều phương thức trực tiếp, gián tiếp thông qua Internet hay các phương tiện truyền tin khác. Và đã biết bao nhiêu gia đình tan nát, điêu đứng vì “Đánh bạc”.

Nhận thức được tác hại của “Đánh bạc” đối với xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã dùng nhiều biện pháp như giáo dục, tuyên truyền nhằm hạn chế tác hại của “Đánh bạc” đối với đời sống xã hội. Và một trong những biểu hiện cao nhất, kiên quyết nhất đó là việc thể chế hóa thành quy định pháp luật trong Bộ luật Hình sự. Tại bộ luật Hình sự hiện hành đánh bạc được điều chỉnh bởi hai điều: 248 về “Tội đánh bạc” và 249 về “Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc”. Để giúp những người áp dụng pháp luật có nhận thức đúng đắn và định hướng xử lý chính xác đối với từng dạng, phương thức đánh bạc xảy ra trong xã hội, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành một số văn bản như Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP, Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP và gần đây nhất là Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP (sau đây gọi tắt là Nghị quyết 01/2010). Có thể nói, với sự ra đời của các văn bản như đã nêu và đặc biệt là Nghị quyết số 01/2010 đã tạo cơ sở pháp lý khá đầy đủ (ở thời điểm hiện tại) để xử lý các hiện tượng liên quan đến “Đánh bạc”. Tuy nhiên, xuất phát từ thực tiễn và qua nghiên cứu về nội dung cũng như kỹ thuật lập pháp thể hiện tại Nghị quyết số 01/2010, người viết đưa ra một vài quan điểm cá nhân để cùng bàn luận như sau:

   danhbac

   Ảnh minh họa

Kỹ thuật lập pháp:

Nghị quyết 01/2010 quy định:

“…Khi xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc cần phân biệt:

a) Trường hợp nhiều người cùng tham gia đánh bạc với nhau thì việc xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc đối với từng người đánh bạc là tổng số tiền, giá trị hiện vật của những người cùng đánh bạc được hướng dẫn tại khoản 3 Điều này;

b) Trường hợp đánh bạc dưới hình thức chơi số đề, cá độ bóng đá, cá độ đua ngựa…

….

Việc xác định số tiền hoặc giá trị hiện vật của người chơi đề, cá độ và của chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc dưới hình thức chơi số đề, cá độ bóng đá, cá độ đua ngựa… như sau:

 Xác định số tiền hoặc giá trị hiện vật của người chơi đề, cá độ dùng đánh bạc

a) Trường hợp người chơi số đề, cá độ có trúng số đề, thắng cược cá độ thì số tiền mà họ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ cộng với số tiền thực tế mà họ được nhận từ chủ đề, chủ cá độ.

b) Trường hợp người chơi số đề, cá độ không trúng số đề, không thắng cược cá độ hoặc bị phát hiện, ngăn chặn trước khi có kết quả mở thưởng thì số tiền mà họ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra để mua số đề, cá độ.

Xác định số tiền hoặc giá trị hiện vật của chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc

a) Trường hợp có người chơi số đề, cá độ trúng số đề, thắng cược cá độ thì số tiền chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc là toàn bộ số tiền thực tế mà chủ đề, chủ cá độ đã nhận của những người chơi số đề, cá độ và số tiền mà chủ đề, chủ cá độ phải bỏ ra để trả cho người trúng (có thể là một hoặc nhiều người)

b) Trường hợp không có người chơi số đề, cá độ trúng số đề, thắng cược cá độ hoặc bị phát hiện, ngăn chặn trước khi có kết quả mở thưởng, kết quả bóng đá, kết quả đua ngựa… thì số tiền chủ đề, chủ cá độ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà chủ đề, chủ cá độ đã nhận của những người chơi số đề, cá độ.

Vấn đề cần bàn ở đây đó là theo quy định tại điểm a, khoản 4, Điều 1 của Nghị định này có đưa ra khái niệm “cùng tham gia đánh bạc với nhau”. Tại điểm này sử dụng kỹ thuật lập pháp đó là đưa ra một quy định mang tính “định tính” chỉ ra bản chất của hình thức đánh bạc. Nhưng đến điểm b thì kỹ thuật lập pháp được dùng ở đây lại là phương pháp liệt kê mà không chỉ ra bản chất của các hình thức được liệt vào điểm này. Theo người viết, ưu điểm của phương pháp liệt kê tại điểm b là chỉ ra chính xác một số hình thức “Đánh bạc” để người áp dụng pháp luật có thể áp dụng dễ dàng. Tuy nhiên, đó cũng lại chính là hạn chế của phương pháp này. Việc không “định tính” dẫn đến việc khi phát sinh các hình thức đánh bạc có bản chất tương tự thì dễ bị áp dụng pháp luật một cách tùy tiện hoặc sai lầm và gây khó khăn cho người áp dụng pháp luật. Và có thể thấy là đối với cả hai trường hợp được quy định tại điểm a và b, khoản 4, điều 1 này thì vẫn chưa có một sự hướng dẫn, giải thích thật sự rõ ràng nào giúp tránh việc áp dụng pháp luật một cách thiếu thống nhất dẫn đến thiếu sót trong quá trình đấu tranh, xử lý tội phạm.

  1. Về mặt thực tiễn:

Để minh chứng cho quan điểm như đã nêu về vấn đề kỹ thuật lập pháp. Người viết đưa ra một ví dụ như sau:

“Ngày 13/6/2014, Cơ quan CSĐT Công an huyện X bắt quả tang 11 đối tượng có hành vi đánh bạc với hình thức xóc đĩa, thắng với tỷ lệ: 1 x 2. Tại hiện trường vật chứng thu giữ tại chiếu bạc là 4.900.000đ (Bốn triệu chín trăm nghìn đồng), 01 bát, 01 đĩa, 04 quân vị và một số điện thoại và số tiền của từng đối tượng như bảng dưới đây:

Nghi can số Số tiền chơi (VND) Tư cách chơi Ghi chú
1 2.000.000 Chủ cái
2 20.000 Người chơi Thua hết
3 170.000 Người chơi Thua hết
4 250.000 Người chơi Thua hết
5 500.000 Người chơi Thua hết
6 700.000 Người chơi Thua hết
7 120.000 Người chơi Thua hết
8 80.000 Người chơi Thua hết
9 800.000 Người chơi Thua hết
10 150.000 Người chơi Thua hết
11 200.000 Người chơi Thua hết
Tổng        4.990.000

 

Căn cứ trên kết quả tổng hợp từ lời khai, Cơ quan CSĐT nhận thấy đủ lượng theo quy định điều 248 BLHS và xác định đây là trường hợp “cùng tham gia đánh bạc với nhau” theo như quy định tại điểm a, khoản 4, Điều 1 Nghị quyết 01/2010. Có nghĩa là từng đối tượng sẽ phải chịu trách nhiệm với tổng số tiền và hiện vật thu giữ mà chứng minh được là sẽ dùng để đánh bạc. Do đó, Cơ quan CSĐT đã ra quyết định khởi tố bị can đối với 11 đối tượng nêu trên.”

Để xác định xem quyết định khởi tố bị can đối với từng trường hợp, đối tượng cụ thể có phù hợp với quy định của pháp luật không thì cần quay lại vấn đề lý luận đó là phải hiểu thế nào là “cùng tham gia đánh bạc với nhau” và các hình thức đánh bạc tương tự như số đề, cá độ…là như thế nào? Nhưng có thể thấy rằng quy định tại Nghị quyết 01/2010 chưa có hướng dẫn hay cách giải thích rõ ràng về vấn đề này.

Theo quan điểm của người viết đối với trường hợp đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa nêu trên nói riêng thì đây là hình thức đánh bạc mà có 1 con bạc (1 bên, có thể gồm nhiều người) cầm cái (chủ cái) để đánh với các con bạc riêng lẻ khác. Theo luật chơi (nếu không có thỏa thuận khác), các con bạc lẻ tham gia đánh bạc là chỉ đánh với chủ cái và không có sự tương tác, sát phạt lẫn nhau (cũng tương tự như đặt cược đua ngựa) nên đây không phải là loại “cùng tham gia đánh bạc với nhau” mà bản chất của hình thức này là “một người đánh bạc với nhiều người”. Do vậy, cần áp dụng quy định tại điểm b, khoản 4, điều 1 Nghị quyết 01/2010 đối với trường hợp này và việc xác định số tiền dùng để đánh bạc để xác định trách nhiệm hình sự cần áp dụng trong trường hợp này cần áp dụng giống hướng dẫn đối với lô, đề, cá độ…có nghĩa là:

  • Đối với những người đánh bạc riêng lẻ thì số tiền mà họ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà họ đã và sẽ (nếu chứng minh được là sẽ dùng để đánh) bỏ ra để đánh bạc cộng với số tiền thực tế mà họ được nhận từ chủ cái nếu thắng (Cách tính như theo quy định tại tiểu mục 5.1, khoản 5, Điều 1 Nghị quyết 01/2010).
  • Đối với chủ cái thì số tiền chủ cái dùng đánh bạc là toàn bộ số tiền thực tế mà chủ đề, chủ cá độ đã nhận của những người chơi số đề, cá độ và số tiền mà chủ đề, chủ cá độ phải bỏ ra để trả cho người trúng (có thể là một hoặc nhiều người) (Cách tính như theo quy định tại tiểu mục 5.2, khoản 5, Điều 1 Nghị quyết 01/2010).
  1. Góp ý, đề xuất:

Xuất phát từ mong muốn hướng tới sự nhận thức pháp luật thật sự rõ ràng, thống nhất cho vấn đề xác định trách nhiệm hình sự đối với hành vi đánh bạc, nhằm hạn chế việc áp dụng pháp luật thiếu chính xác dẫn đến việc hình sự hóa các quan hệ pháp luật khác, người viết xin đưa ra quan điểm, nhận thức cá nhân đối với các quy định của Nghị quyết 01/2010 và được thể hiện rõ qua quan điểm về phương hướng xử lý đối với ví dụ nêu trên. Và cũng từ việc nhận thức rằng còn một số nội dung chưa thật sự rõ ràng hay thiếu sự hướng dẫn, giải thích cụ thể tại nội dung của Nghị quyết 01/2010, người viết xin đưa ra một vài quan điểm đóng góp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật hình sự về “Đánh bạc” như sau:

  • Trước hết, để có cách hiểu thống nhất đảm bảm việc áp dụng pháp luật một cách đúng đắn, không oan sai thì cần phải có hướng dẫn, giải thích cụ thể về các thuật ngữ như “cùng tham gia đánh bạc với nhau” và “một người đánh bạc với nhiều người” như đề xuất bổ sung tại phần kỹ thuật lập pháp.

Người viết đưa ra một số đề xuất giải thích như sau:

  • Cùng tham giam đánh bạc với nhau” là việc các con bạc trong cùng chiếu bạc có sự sát phạt (tương tác) lẫn nhau.
  • Một người đánh bạc với nhiều người” là việc một hoặc một số con bạc (cùng phe) có vai trò trung tâm, đánh bạc (tương tác) với các con bạc tham gia chơi khác. Trong khi đó, các con bạc khác chỉ tương tác đối với riêng con bạc trung tâm mà không có sự tương tác lẫn nhau giữa các con bạc cùng chơi.
  • Để khắc phục hạn chế như đã phân tích về kỹ thuật lập pháp thì cần có văn bản hướng dẫn, bổ sung quy định tại điểm b, khoản 4, Điều 1 theo đó quy định về bản chất mang tính “định tính” của các hình thức đánh bạc như lô, đề, cá độ… đó là việc “một người đánh bạc với nhiều người” sau đó liệt kê một số hình thức điển hình để người áp dụng pháp luật dễ hình dung để áp dụng cho đúng. Ví dụ có thể quy định như sau:

“…

  1. Khi xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc cần phân biệt:
  2. a) Trường hợp nhiều người cùng tham gia đánh bạc với nhau thì việc xác định tiền, giá trị hiện vật dùng đánh bạc đối với từng người đánh bạc là tổng số tiền, giá trị hiện vật của những người cùng đánh bạc được hướng dẫn tại khoản 3 Điều này;
  3. b) Trường hợp một người hay một bên đánh bạc với nhiều người ví dụ như hình thức chơi số đề, cá độ bóng đá, cá độ đua ngựa hoặc các hình thức đánh bạc khác có bản chất tương tự…”

Ví dụ được người viết nêu trên là một trong những ví dụ thực tế về cách tư duy xác định trách nhiệm hình sự đối với tội danh “Đánh bạc”. Và do có sự nhận thức và quan điểm xử lý không đồng nhất về vấn đề này nên người viết mạnh dạn trình bày quan điểm cá nhân như trên. Và dù nhận thức pháp luật của người viết có thể đúng hay chưa đúng nhưng với tinh thần cầu thị và hơn cả mong muốn được sự tham gia phân tích của các chuyên gia, các nhà lập pháp về vấn đề này để cho không chỉ người viết mà những nhà áp dụng pháp luật khác có một cách tư duy, cách nhận thức pháp luật nhất quán về vấn đề xác định trách nhiệm hình sự đối với các trường hợp tương tự có thể xảy ra trên thực tế. Từ đó làm nền tảng cho việc áp dụng pháp luật một cách đúng đắn hơn, tránh việc có thể vận dụng quy phạm pháp luật không đúng đắn sau này.

                                                                            Công ty Luật Minh Bạch

Bài viết cùng chủ đề

tong-hop-cac-mau-giay-uy-quyen-pho-bien-nhat-hien-nay
Mẫu giấy ủy quyền

Sau đây công ty Luật Minh Bạch sẽ cung cấp cho mọi người mẫu tham khảo : giấy ủy quyền

Bài viết mới nhất

video tư vấn

dịch vụ tiêu biểu

Bài viết xem nhiều

dịch vụ nổi bật