Vừa qua, Bộ Giao thông vận tải ban hành Quyết định 2729/QĐ-BGTVT hướng dẫn phương pháp tính toán công suất bến xe khách.
Ảnh minh họa (internet)
Theo đó, lưu lượng giao thông của đường để tính công suất khai thác bến xe được tính dựa trên khảo sát lưu lượng giao thông tại các tuyến đường chính được đề xuất xung quanh bến xe như sau:
– Phạm vi đến 5 km cho bến xe trong đô thị loại đặc biệt, đến 4 km cho bến xe trong đô thị loại 1;
– Phạm vi đến 3 km cho bến xe trong đô thị loại 2, đến 2 km cho bến xe trong đô thị loại 3;
– Phạm vi đến 1 km cho bến xe trong đô thị từ loại 4 trở xuống.
Lưu lượng xe được khảo sát vào 03 ngày trong tuần (trừ ngày lễ, tết, thứ bảy, chủ nhật) và được lấy bình quân trong 01 ngày theo đơn vị xe con quy đổi.
Hệ số xe con quy đổi được lấy theo TCVN 104:2007 “Đường đô thị – Yêu cầu thiết kế” nếu là đường đô thị; theo TCVN 4054:2005 “Đường ô tô – Yêu cầu thiết kế” nếu là đường ngoài khu vực đô thị.
Quyết định 2729/QĐ-BGTVT có hiệu lực từ ngày 30/8/2016.
Trên đây là quan điểm của Luật Minh Bạch về vấn đề trên, bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, để được hỗ trợ và tư vấn cụ thể hơn, quý bạn đọc vui lòng liên hệ trực tiếp:
Công ty Luật Minh Bạch
Địa chỉ: Phòng 703, số 272 Khương Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
Mẫu số 02-VDS (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 04/2018/NQ-HĐTP ngày 09 tháng 8 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao)
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
—————
ĐƠN RÚT YÊU CẦU
GIẢI QUYẾT VIỆC DÂN SỰ
(V/v: …………………………)(1)
Kính gửi: Tòa án nhân dân ……………………(2)
Người rút đơn yêu cầu:(3) …………………………………………………………………………………………
Địa chỉ:(4) ………………………………………………………………………………………………………………
Số điện thoại (nếu có): ……………………………; Fax (nếu có):………………………………………..
Địa chỉ thư điện tử (nếu có): ……………………………………………………………………………………..
Ngày …..tháng ….năm ….., tôi (chúng tôi) có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân giải quyết việc dân sự(5) …………………………………………………………………………………………………………………….
Nay do (6) ………………………………………………………………………………………………………………
Vì vậy, tôi (chúng tôi) xin rút toàn bộ (một phần)(7) …………….đơn yêu cầu ngày …. tháng….. năm………. , đề nghị Tòa án xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.
………, ngày…. tháng…. năm…….
NGƯỜI RÚT ĐƠN YÊU CẦU(8)
Hướng dẫn sử dụng mẫu số 02-VDS:
(1) và (5) Ghi loại việc dân sự mà người rút đơn yêu cầu đã yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự (ví dụ: “Yêu cầu tuyên bố một người mất tích”; “Yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông”; “Yêu cầu tuyên bố hợp đồng lao động vô hiệu”).
(2) Nếu là Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh thì ghi rõ tên Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nào (ví dụ: Tòa án nhân dân huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội); nếu là Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì ghi Tòa án nhân dân tỉnh (thành phố) đó (ví dụ: Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam).
(3) Nếu người rút đơn yêu cầu là cá nhân thì ghi rõ họ tên, ngày tháng năm sinh và số chứng minh thư nhân dân/căn cước công dân/hộ chiếu hoặc giấy tờ tùy thân khác của người đó; nếu là cơ quan, tổ chức thì ghi tên cơ quan, tổ chức và họ tên của người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó. Nếu là người đại diện theo pháp luật thì sau họ tên ghi “- là người đại diện theo pháp luật của người có quyền yêu cầu” và ghi rõ họ tên của người có quyền yêu cầu; nếu là người đại diện theo ủy quyền thì ghi “- là người đại diện theo ủy quyền của người có quyền yêu cầu theo văn bản ủy quyền được xác lập ngày……..” và ghi rõ họ tên của người có quyền yêu cầu. Trường hợp có nhiều người cùng rút đơn yêu cầu thì đánh số thứ tự 1, 2, 3,… và ghi đầy đủ các thông tin của từng người.
(4) Nếu người rút đơn yêu cầu là cá nhân thì ghi đầy đủ địa chỉ nơi cư trú, nơi làm việc (nếu có) của người đó tại thời điểm rút đơn yêu cầu (ví dụ: thôn Bình An, xã Phú Cường, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội); nếu là cơ quan, tổ chức thì ghi địa chỉ trụ sở của cơ quan, tổ chức đó tại thời điểm rút đơn yêu cầu (ví dụ: trụ sở tại số 20 phố Lý Thường Kiệt, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội).
(6) Ghi cụ thể lý do xin rút đơn yêu cầu (ví dụ: người bị yêu cầu tuyên bố mất tích đã trở về,…..).
(7) Trường hợp người rút đơn yêu cầu rút một phần yêu cầu thì ghi rõ nội dung phần yêu cầu rút đơn.
(8) Nếu người rút đơn yêu cầu là cá nhân thì phải có chữ ký hoặc điểm chỉ của người đó; nếu là cơ quan, tổ chức thì người đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức phải ký tên, ghi rõ họ tên, chức vụ và đóng dấu của cơ quan, tổ chức đó. Trường hợp người rút đơn yêu cầu là doanh nghiệp thì việc sử dụng con dấu thực hiện theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Trường hợp có nhiều người cùng rút yêu cầu thì cùng ký và ghi rõ họ tên của từng người vào cuối đơn.
Trên đây là quan điểm của Luật Minh Bạch về vấn đề trên, bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, để được hỗ trợ và tư vấn cụ thể hơn, quý bạn đọc vui lòng liên hệ theo địa chỉ:
Công ty Luật Minh Bạch
Phòng 703, số 272 Khương Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
Trường hợp doanh nghiệp phát hiện nội dung trong Giấy chứng nhậnđăng ký doanh nghiệp chưa chính xác so với nội dung hồ sơ đăng ký doanhnghiệp, doanh nghiệp gửi Giấy đề nghị hiệu đính thông tin theo mẫu quy địnhtại Phụ lục II-14 ban hành kèm theo Thông tư này đến Phòng Đăng ký kinhdoanh nơi doanh nghiệp đã đăng ký.
Trường hợp doanh nghiệp phát hiện nội dung thông tin đăng ký doanh nghiệp bị thiếu hoặc chưa chính xác so với bản giấy của Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế, Giấy chứng nhận đầu tư, Giấy phép đầu tư (sau đây gọi chung là Giấy chứng nhận) do quá trình chuyển đổi dữ liệu vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp gửi Giấy đề nghị hiệu đính theo mẫu quy định tại Phụ lục II-16 ban hành kèm theo Thông tư này đến Phòng Đăng ký kinh doanh nơi đặt trụ sở chính. Kèm theo Giấy đề nghị hiệu đính phải có bản sao hợp lệ Giấy chứng nhận
Trong thời hạn 3 ngày làm việc kể từ khi doanh nghiệp gửi giấy đề nghị hiệu đính thông tin này phòng đăng ký kinh doanh sẽ có kết quả làm việc .
“Với thực tiễn công tác của mình, tôi cho rằng việc “tham nhũng vặt” vẫn luôn tồn tại và được xem như là một tất yếu khi người dân cần sử dụng các dịch vụ công chính là do một chữ “lợi” – luật sư Trần Tuấn Anh ( Giám đốc công ty Luật Minh Bạch- Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội) phân tích về lý do vì sao tham nhũng vặt vẫn có thể tồn tại trong đời sống hàng ngày.
Luật sư Trần Tuấn Anh – Giám đốc công ty Luật Minh Bạch
Phân tích sâu hơn, LS Trần Tuấn Anh chia sẻ: Khi đề cập đến tham nhũng vặt, tôi lại liên tưởng đến câu nói phổ biến trong dân gian: “Buôn thất nghiệp, lãi quan viên” để chỉ những người buôn bán nhỏ, nhưng lợi nhuận trên phần vốn là rất lớn.
Ở đây tham nhũng vặt cũng gần gần như vậy. Tuy rằng nó chỉ có 100.000 – 200.000 đồng, thậm chí là 50.000 đồng khi mỗi người sử dụng dịch vụ phải bỏ ra, nhưng nó lại thường diễn ra trong các lĩnh vực mà rất đông người sử dụng dịch vụ. Chính vì vậy nếu tổng kết lại thì số lượng tiền tham nhũng lại không hề “vặt” một chút nào.
Chúng ta có thể điểm qua một số các lĩnh vực mà người sử dụng thường phải “lót tay” mỗi khi sử dụng dịch vụ như: Y tế, dịch vụ hành chính công (cấp mới, thay đổi nội dung giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; đăng ký kinh doanh; xin các loại giấy phép con; xin giấy phép lao động…); dịch vụ hải quan; thuế… hay thậm chí là xin cho con được đi học trường công lập, đúng tuyến; xin được làm công nhân, bảo vệ cũng phải chi một khoản không hề nhỏ với thu nhập của người dân để đạt được mục đích mà đáng ra là quyền của của công dân.
Ảnh minh họa (internet)
Tôi chỉ đơn cử trong lĩnh vực đăng ký hoạt động doanh nghiệp tại một địa phương, mỗi hồ sơ bình thường (liên quan đến thành lập mới, thay đổi ĐKKD, giải thể…) để được duyệt hoặc được sửa hồ sơ nhanh (mà như những người trong nghề chuyên đi đăng ký kinh doanh thuê thường hay gọi vắn tắt là để “không bị ăn thông báo”) thì phải lót tay số tiền 200.000 đồng. Như vậy, chúng ta có thể hình dung ra được số tiền “tham nhũng vặt” sẽ lớn như thế nào khi tại địa phương này hàng năm có tới hàng chục nghìn lượt doanh nghiệp sử dụng dịch vụ đăng ký kinh doanh?
Với thực tiễn công tác của mình, tôi cho rằng việc “tham nhũng vặt” vẫn luôn tồn tại và được xem như là một tất yếu khi người dân cần sử dụng các dịch vụ công là do một chữ “lợi”. Hiện tượng tham nhũng vặt này đã tồn tại không biết bao đời nay trong xã hội chúng ta và nó như một lối mòn trong suy nghĩ của người dân khi sử dụng dịch vụ công. Tuy nhiên, muộn còn hơn không, hơn lúc nào hết các cơ quan quản lý cần phải ngay lập tức tiến hành thanh tra, kiểm tra, chấn chỉnh lại hoạt động và cách phục vụ của nền hành chính công; tăng cường tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người dân để họ hiểu rằng hành vi đó là vi phạm pháp luật, các cơ quan công quyền sinh ra là để phục vụ người dân, phục vụ xã hội. Có làm được như vậy thì người dân mới bớt khổ và bớt đi nỗi lo mỗi khi có việc phải sử dụng đến dịch vụ công ngay trên đất nước của mình.
Trách nhiệm của các cơ quan thanh, kiểm tra ở đâu?
Những năm gần đây, số lượng các vụ án tham nhũng không giảm mà có chiều hướng gia tăng với quy mô lớn, tính chất phức tạp và cực kỳ nghiêm trọng với số tiền gây thiệt hại cho nền kinh tế đất nước lên đến hàng ngàn tỷ đồng… Để xảy ra những vụ việc trên, các đối tượng trong vụ án chắc chắn phải đối mặt với những bản án nghiêm khắc nhất của pháp luật.
Ảnh minh họa
Tuy nhiên, nó cũng để lại trong dư luận xã hội câu hỏi lớn về hiệu quả của công tác thanh kiểm tra của các cơ quan chuyên trách. Công tác này vẫn được thực hiện hàng năm và các vụ án trên đều diễn ra trong một thời gian dài, số tài sản lớn vậy mà không thể phát hiện được ngay để ngăn chặn khi mà hậu quả còn chưa lớn.
Phải chăng do trình độ năng lực yếu kém hay do mối quan hệ dẫn đến sự nể nang, khi không còn kiểm soát được mới công bố với bàn dân thiên hạ! Nhưng vụ án tham nhũng, ngoài trách nhiệm của những người gây ra, còn phải xem xét cả trách nhiệm của những cơ quan chuyên trách về thanh- kiểm tra.
Theo đánh giá của Tổ chức Minh bạch quốc tế, Việt Nam thuộc nhóm nước tham nhũng nghiêm trọng. Trong các báo cáo của Đảng, Nhà nước cũng đánh giá tham nhũng là quốc nạn, làm xói mòn lòng tin của nhân dân, đe dọa sự tồn vong của chế độ.
Tham nhũng hiện nay xảy ra ở nhiều lĩnh vực từ quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản, tài chính, ngân hàng, đầu tư xây dựng cơ bản, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp, tư pháp… Tình trạng tham nhũng vặt của cán bộ công chức trong bộ máy công quyền khiến người dân vô cùng bức xúc.
Nguyên nhân của tình trạng trên có nhiều, dưới góc độ của người làm công tác pháp luật, tôi cho rằng một số biện pháp phòng ngừa tham nhũng còn mang tính hình thức, hiệu quả thấp, nhất là việc kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức (lý do cơ bản là chưa công khai kết quả kê khai).
Luật Phòng chống tham nhũng (PCTN); Nghị định 59/2013/NĐ-CP ngày 17.6.2013 quy định chi tiết một số điều của luật PCTN, các thông tư của Thanh tra Chính phủ là những công cụ sắc bén để PCTN. Tuy nhiên con người vẫn là yếu tố quyết định. Điều 30, Luật PCTN mới chỉ đề cập tới việc công khai, minh bạch trong công tác tổ chức – cán bộ. Điều đó mới chỉ đáp ứng được yếu tố cần.
Yếu tố đủ quan trọng nhất là phải có quy chuẩn về phẩm chất, năng lực cán bộ cũng như quy chuẩn về việc đánh giá và tuyển chọn cán bộ công chức, viên chức. Trên cơ sở đó loại bỏ được công chức, viên chức yếu kém, tham nhũng để bộ máy Nhà nước trong sạch.
Căn cứ Điều 21 Mục 1 Chương III Quyết định 959/QĐ-BHXH ngày 9/9/2015 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam, hồ sơ đơn vị tham gia, đóng BHXH, BHYT, BHTN lần đầu, gồm:
– Thành phần hồ sơ:
Đối với người lao động: Tờ khai cung cấp và thay đổi thông tin người tham gia BHXH, BHYT (Mẫu TK1-TS); đối với người được hưởng quyền lợi BHYT cao hơn cần có giấy tờ chứng minh.
Đối với đơn vị: Tờ khai cung cấp và thay đổi thông tin đơn vị tham gia BHXH, BHYT (Mẫu TK3-TS); danh sách lao động tham gia BHXH, BHYT, BHTN (Mẫu D02-TS); bảng kê hồ sơ làm căn cứ hưởng quyền lợi BHYT cao hơn (Mục II Phụ lục 03).
Trong phiên xử ngày 21/9 thì Phương Nga nói rằng bị cáo và bị hại có “hợp đồng tình ái” trị giá 16.5 tỷ (Nga có lăn tay), hợp đồng có điều khoản “Nga phải quan hệ tình cảm 7 năm với bị hại”.
Bị cáo Dung nói hợp đồng có thật, nhưng quan hệ giữa bị hại và Nga đổ vỡ nên bị hại đã biến hợp đồng thành đó thành mua bán nhà để vu cho Nga tội lừa đảo.
Xin luật sư cho biết vậy nếu lời khai của Nga, Dung là đúng sự thật thì “hợp đồng tình ái” có hợp pháp hay không?
Ảnh (báo tuoitre)
Luật sư trả lời:
Trước hết đây là lời khai một phía từ hoa hậu “Phương Nga” nên tôi chưa thể khẳng định hợp đồng tình cảm này có thật hay không? Phương Nga cũng chưa chính thức đưa ra “bản hợp đồng” này để làm chứng cứ xác thực lời khai của mình. Đây là một trong những yếu tố để Tòa án nhân dân TP.HCM trả hồ sơ để Viện kiểm sát để điều tra bổ sung.
“Hợp đồng tình ái” là trái quy định của pháp luật Việt Nam.
Trong trường hợp lời khai của Nga, Dung là đúng sự thật.
Theo quy định của Pháp luật Việt Nam thì không có quy định nào về “hợp đồng tình ái”.
Nếu coi đây là một “hợp đồng dân sự” thì nó đã vi phạm nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự theo quy định tại Điều 389 BLDS 2005.
Bởi lẽ, tình cảm là thứ xuất phát tự nguyện từ bản thân của hai phía. Không thể dùng tiền bạc, tài sản hay thậm chí là danh lợi để giao dịch. Như vậy, hành vi dùng 16,5 tỷ VNĐ để đổi lấy 07 năm quan hệ tình cảm với ông M là trái với thuần phong, mỹ tục của dân tộc ta.
Chế tài xử lý về hành vi vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng.
Nếu lời khai của Nga là đúng sự thật và trong trường hợp Nga biết ông M đã có vợ và vẫn đồng ý chung sống và quan hệ tình cảm với ông M thì ông M và Nga có thể bị xử phạt hành chính theo tại Điều 48 Nghị định 110/2013/NĐ-CP:
“Điều 48. Hành vi vi phạm quy định về cấm kết hôn, vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng; vi phạm quy định về ly hôn
Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;..”
Ngoài ra, tùy vào mức độ có thể bị truy cứu TNHS theo quy định tại khoản 1 Điều 147 BLHS 1999:
“Điều 147. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng
Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.”
Sở Y tế TP Hà Nội vừa có báo cáo sự cố y khoa tại bệnh viện đa khoa Trí Đức (Hai Bà Trưng, Hà Nội) khiến 2 bệnh nhân tử vong sáng 25/12.
2 bệnh nhân được xác định là Quách Thị Mai P. (37 tuổi, quận Ba Đình) và Hoàng Văn T. (34 tuổi, quận Hoàng Mai).
2 bệnh nhân do 2 kíp mổ khác nhau thực hiện, mỗi kíp 5 người gồm 1 bác sĩ mổ, 1 bác sĩ gây mê, 1 kĩ thuật viên gây mê, 2 dụng cụ viên.
Sở y tế đã tạm đình chỉ hoạt động phẫu thuật tại bệnh viện Đa khoa Trí Đức và 10 cán bộ nói trên để phục vụ công tác điều tra.
Liên quan đến vụ việc nêu trên, cần xem xét trách nhiệm pháp lý trong trường hợp này, không hiểu rõ nguyên nhân gây ra cái chết cho 2 bệnh nhân trên là do biến chứng y khoa hoặc do do tắc trách, yếu kém chuyên môn. Vấn đề trong các vụ tai biến y tế hiện nay là những người trực tiếp có liên quan để xảy ra sự việc đều xác định thuộc về nguyên nhân khách quan, tức là do tắc trách và yếu kém về năng lực chứ rất ít trường hợp có kết luận là vi phạm quy định về khám chữa bệnh.Nếu có chỉ là dấu hiệu liên quan đến vi phạm quy định đó
Về nguyên tắc xử lý, sẽ phải tiến hành thành lập một hội đồng chuyên môn để xác định chính xác nguyên nhân xảy ra sự việc chứ không chỉ dựa vào báo cáo hay tường trình từ một bên. Bản lề của sự việc này là xem xét việc có hành vi vi phạm trách nhiệm trong chăm sóc và điều trị người bệnh hoặc vi phạm nghiêm trọng các quy định chuyên môn kỹ thuật để làm cơ sở cho việc xử lý hình sự đối với người có liên quan để xảy ra sự cố nêu trên.
Nếu không kết luận được bác sĩ đã vi phạm các quy định về khám chữa bệnh mà cụ thể trong trường hợp này là các quy định về thăm khám, phẫu thuật, cấp cứu thì chỉ có thể xử lý kỷ luật đối với 2 e kíp này và yêu cầu bệnh viện phải bồi thường thiệt hại cho những tổn thất mà gia đình phải chịu đựng. Căn cứ vào Điều 618 Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra thì cơ sở này phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; sau khi đã bồi thường thiệt hại thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật.
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại căn cứ theo quy định tại Điều 605 Bộ luật dân sự, theo đó thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Việc bồi thường được hướng dẫn bởi Khoản 1 Mục 1 Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP, theo đó người nhà nạn nhân có thể được bồi thường cho những thiệt hại về vật chất và tinh thần từ việc người thân bị chết.
Phải xem xét các dấu hiệu hình sự.
Việc thường xuyên kết luận do tắc trách, yếu kém chuyên môn đã khiến nỗi sợ của bệnh nhân với ngành Y tế tăng cao trong thời gian gần đây, một phần bởi pháp luật có quy định nhưng gần như không được áp dụng trên thực tế. Căn cứ theo quy định của Điều 242 Bộ luật hình sự 1999 về Tội vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh, sản xuất, pha chế thuốc, cấp phát thuốc, bán thuốc hoặc dịch vụ y tế khác thì người nào vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ của người khác hoặc đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ 1 năm đến 5 năm.
Theo Khoản 2, Điều 315, Bộ Luật Hình sự năm 2015 sắp có hiệu lực mới đây thì sẽ bị phạt tù từ 3 năm đến 10 năm nếu gây ra hậu quả làm chết 02 người, ngoài ra theo khoản 5 điều này người phạm tội còn bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Trường hợp này thiệt hại là tính mạng con người. Dựa vào điều này có thể kết luận, nếu xác định bác sĩ trực tiếp tiến hành phẫu thuật cho nạn nhân đã vi phạm các quy định về khám bệnh, chữa bệnh như sai sót trong chẩn đoán, thực hiện sai quy trình cấp cứu…và giám định pháp y cho thấy rõ điều này thì đủ yếu tố để cấu thành tội phạm với bác sĩ đã thực hiện hành vi vi phạm về tội danh vi phạm quy định về khám bệnh, chữa bệnh theo điều 242 Bộ luật hình sự 1999, mức cao nhất của khung hình phạt có thể lên đến 15 năm tù, ngoài ra việc bồi thường thiệt hại vẫn được xác định theo đúng quy định hiện hành của pháp luật dân sự.
Tuy nhiên trong trường hợp này chưa thể kết luận được là các y bác sỹ của bệnh viện Đa khoa Trí Đức vi phạm quy định về khám chữa bệnh theo điều 242 Bộ Luật hình sự năm 1999, mà chỉ xem là có dấu hiệu vi phạm quy định trên, muốn xác định rõ hành vi có vi phạm quy định trên hay không còn phụ thuộc vào kết luận của cơ quan điều tra để đưa ra các mặt cấu thành tội phạm, mặt khách quan, chủ quan… để xác định đúng trách nhiệm pháp lý của các cá nhân, cơ quan tổ chức trong trường hợp gây ra thiệt hại trên
Đây là nội dung đáng chú ý tại Dự thảo Thông tư quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật bảo hiểm xã hội và Luật bảo hiểm y tế thuộc lĩnh vực y tế.
Theo đó, người tham gia bảo hiểm y tế khi khám, chữa bệnh chỉ cần cung cấp số thẻ bảo hiểm y tế (không cần xuất trình thẻ) hoặc xuất trình thẻ bảo hiểm y tế.
Đối với trường hợp xuất trình thẻ bảo hiểm y tế chưa có ảnh thì phải cung cấp số định danh cá nhân hoặc xuất trình một trong các loại giấy tờ sau:
– Thẻ căn cước công dân còn giá trị hiệu lực.
– Chứng minh nhân dân còn giá trị hiệu lực (bao gồm cả chứng minh quân đội).
– Hộ chiếu còn giá trị hiệu lực.
– Thẻ học sinh, sinh viên, học viên còn giá trị hiệu lực (đối với học sinh, sinh viên chưa đủ tuổi làm chứng minh minh nhân dân).
– Các giấy tờ có ảnh khác do cơ quan quản lý nhà nước hoặc cơ quan nơi người đó đang công tác, làm việc cấp hoặc xác nhận.
Đối với trẻ em dưới 6 tuổi nếu không xuất trình thẻ bảo hiểm y tế vẫn được hưởng quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế nhưng phải xuất trình giấy chứng sinh hoặc giấy khai sinh; trường hợp phải điều trị ngay sau khi sinh mà chưa có giấy chứng sinh thì thủ trưởng cơ sở y tế hoặc người được thủ trưởng cơ sở y tế ủy quyền và cha hoặc mẹ hoặc người giám hộ của trẻ ký xác nhận vào hồ sơ bệnh án để làm căn cứ thanh toán theo quy định.
Thông tư liên tịch 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC quy định một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án (THA) dân sự có hiệu lực từ ngày 30/9/2016.
Theo đó, căn cứ xác minh đối với tài sản thuộc diện phải đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản sẽ thông qua:
– Hợp đồng mua bán, chuyển đổi, chuyển nhượng hoặc tặng cho, giấy chứng nhận về quyền sở hữu, sử dụng tài sản; hoặc
– Chủ sở hữu, chính quyền địa phương, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, cơ quan chức năng; hoặc
– Người làm chứng như xác nhận của người bán, của chính quyền địa phương, cơ quan chức năng về việc mua bán tài sản.
Ngoài ra, với trường hợp đình chỉ THA do người được THA chết mà không có người thừa kế thì phải xác minh qua chính quyền địa phương, cơ quan quản lý hộ khẩu, nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được THA.
Tại Hội nghị triển khai hướng dẫn Nghị định 01 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số nghị định quy định chi tiết thi hành luật Đất đai do UBND TP.HCM tổ chức ngày 20.2, hàng loạt quy định mới gỡ vướng cho người dân trong việc cấp giấy chứng nhận, đặc biệt với những trường hợp mua nhà đất bằng giấy tờ tay.
Nghị định số 01cho phép những trường hợp người dân mua bán nhà đất bằng giấy tờ tay từ ngày 1.7.2004 đến trước ngày 1.1.2008 được hợp thức hóa, cấp giấy chứng nhận (GCN) hay còn gọi là “sổ đỏ”.
Điểm mới của nghị định này là những trường hợp mua bán nhà đất bằng giấy tờ tay từ sau ngày 1.7.2004 đến trước ngày 1.1.2008 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ). Trước đây chỉ cho phép những trường hợp mua bán nhà đất bằng giấy tay đến trước ngày 1.7.2004 được cấp GCN.
*Điều kiện để cấp sổ đỏ:
Là nhà, đất đó hiện sử dụng ổn định, phù hợp quy hoạch và không có tranh chấp, khiếu nại; đảm bảo yêu cầu về công khai, minh bạch, đồng thời thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định.
*Cơ quan có thẩm quyền cấp:
1.Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho tổ chức, cơ sở tôn giáo; người Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện dự án đầu tư; tổ chức nước ngoài có chức năng ngoại giao.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được ủy quyền cho cơ quan tài nguyên và môi trường cùng cấp cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
2.Ủy ban nhân dân cấp huyện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài được sở hữu nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.
3.Nghị định lần này cũng cho phép Sở TN-MT được ủy quyền cho Văn phòng đăng ký đất đai cấp GCN trong trường hợp đăng ký biến động đất đai, cấp đổi, cấp lại GCN…Văn phòng đăng ký đất đai có chức năng thực hiện đăng ký đất đai và tài sản gắn liền với đất; cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụngđất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với trường hợp được ủy quyền theo quy định; xây dựng, quản lý, cập nhật, đo đạc, chỉnh lý thống nhất hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu đất đai; thống kê, kiểm kê đất đai; cung cấp thông tin đất đai theo quy định cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu và thực hiện các dịch vụ khác trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ phù hợp với năng lực theo quy định của pháp luật;
Quy định của Nghị định 01 giúp cho người dân những trường hợp mua bán nhà đất bằng giấy tờ tay được hợp thức hóa, giải quyết vấn đề tồn đọng những trường hợp không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đa số trường hợp là mua bán nhà đất bằng giấy tờ tay.
Việc quy định thêm khoảng thời gian mua bán nhà đất từ sau 1.7.2004 đến trước ngày 1.1.2008 giúp cho nhà nước có thể thu được thuế, tiền sử dụng đất vừa giúp việc quản lý đất đai, xây dựng được dễ dàng hơn. Đặc biệt giúp người dân mua bán nhà đất bằng giấy tờ tay có được chỗ ở, miếng đất hợp pháp để làm ăn, ổn định cuộc sống
Quy định như vậy liệu có những bất cập cho những người dân mua bán nhà đất bằng giấy tờ tay sau 1.1.2008 đến nay thì liệu họ có được áp dụng quy định trên hay không làm cách nào để họ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đứng tên của mình, là tài sản của chính mình tích cóp để mua.
Còn nữa, những trường hợp quy định theo đúng nghị định 01 nêu trên, nếu người dân mua bán trong khoảng thời gian được quy định trong nghị định, không có đủ giấy tờ chứng minh việc mua bán, hay giao dịch giữa các cá nhân với nhau thì cơ quan giải quyết như thế nào, phải cần đầy đủ giấy tờ như hợp đồng mua bán, biên lai thu, nhận tiền… Hay chỉ cần 1 loại giấy tờ liên quan đến việc trao đổi mua bán là có thể được cấp giấy chứng nhận (Sổ đỏ).
Nghị định 01 ngoài đề cập đến vấn đề mua bán nhà đất giấy tờ tay còn đề cập đến vấn đề trong đó tập trung vào 9 nhóm vấn đề lớn: quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; chuyển đổi cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp; các trường hợp thu hồi đất do vi phạm; cấp GCN (đặc biệt là một số giấy tờ trước đây chưa đưa vào tháo gỡ); bổ sung các quy định cụ thể về các quyền cho người thuê tài sản khi thuê đất trả tiền hằng năm; chế độ cho đất cho các tổ chức kinh tế cho thuê để sản xuất; cải cách các thủ tục hành chính; giá đất; bồi thường hỗ trợ tái định cư.
Thành phần hồ sơ:
Đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, (có mẫu đơn)
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hoặc giấy tờ liên quan đến việc chuyển nhượng nhà đất
rích lục hoặc trích đo bản đồ địa chính khu đất (trích lục Trích lục hoặc trích đo bản đồ địa chính khu đất hoặc trích đo trên thực đị
*Thời gian thực hiện:
Không quá 20 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ. Thời gian này không bao gồm thời gian thực hiện nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất, thời gian xem xét xử lý đối với trường hợp sử dụng đất có vi phạm pháp luật, thời gian trưng cầu giám định).
Đối với các xã miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn thì thời gian thực hiện được tăng thêm 15 ngày.
Kết quả giải quyết thủ tục hành chính phải trả cho người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất trong thời hạn không quá 03 ngày làm việc kể từ ngày có kết quả giải quyết.
Kinh doanh lữ hành là một trong những loại hình kinh doanh du lịch đang phổ biến ở nước ta hiện nay. Đây là một trong những ngành nghề kinh doanh du lịch quy định tại Điều 38 Luật Du Lịch 2005:
“Kinh doanh du lịch là kinh doanh dịch vụ, bao gồm các ngành, nghề sau đây:
Kinh doanh lữ hành;
Kinh doanh lưu trú du lịch;
Kinh doanh vận chuyển khách du lịch;
Kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch;
Kinh doanh dịch vụ du lịch khác.”
Điều kiện để mở một doanh nghiệp lữ hành ở Việt Nam
– Các cá nhân, tổ chức được quyền thành lập công ty du lịch trừ trường hợp vi phạm điều cấm theo Luật doanh nghiệp 2014.
– Người điều hành du lịch phải có ít nhất 3 năm kinh nghiệm (hoạt động lữ hành nội địa) và 4 năm kinh nghiệm (hoạt động lữ hành quốc tế) khi xin giấy phép hoạt động lữ hành.
– Có ít nhất 3 Hướng dẫn viên du lịch quốc tế làm việc.
– Cơ sở vật chất đảm bảo cho văn phòng hoạt động.
– Có tiền ký quỹ tại Ngân hàng. (Nghị định số 180/2013) –Đối với kinh doanh lữ hành quốc tế.
Với mức ký quỹ kinh doanh lữ hành quốc tế:
+.250.000.000 đồng với doanh nghiệp kinh doanh lữ hành đối với khách du lịch vào Việt Nam;
+.500.000.000 đồng với doanh nghiệp kinh doanh lữ hành đối với khách du lịch ra nước ngoài hoặc kinh doanh lữ hành đối với khách du lịch vào Việt Nam và khách du lịch ra nước ngoài.
– Có hồ sơ thành lập công ty đầy đủ theo quy định tại Nghị định 78 về đăng ký doanh nghiệp
Hiện nay, việc các startup hay công ty khởi nghiệp sáng tạo đang được thúc đầy thành lập với số lượng ngày càng lớn. Theo quy định tại nghị định số 38/2018/NĐ-CP ngày 11 tháng 3 năm 2018 quy định chi tiết về Đầu tư cho doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo đã tạo ra hành lang pháp lý cho loại hình đầu tư mới tại Việt Nam nhưng trên thế giới các nước đã áp dụng từ rất lâu.
Công ty thực hiện quản lý quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo là công ty được thành lập theo pháp luật về doanh nghiệp, có ngành, nghề quản lý quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo.
Như vậy, theo quy định tại Khoản 4, điều 2 của nghị định số 38/2018/NĐ-CP thì Công ty thực hiện quản lý quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo là công ty được thành lập theo pháp luật doanh nghiệp và có ngành nghề quản lý quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo.
Hồ sơ cần cung cấp bao gồm:
Bản sao chứng thực chứng minh thư nhân dân/Hộ chiếu/Căn cước công dân của các thành viên/cổ đông công ty và người đại diện theo pháp luật của công ty
Đáp ứng các yêu cầu theo quy định của pháp luật về công ty quản lý quỹ khởi nghệp sáng tạo.
Thời gian thực hiện: từ 3-7 ngày làm việc.
Nếu có bất cứ thắc mắc nào xin vui lòng liên hệ với chúng tôi:
Luật sư tư vấn pháp luật trực tuyến: 1900 6232
Liên hệ sử dụng dịch vụ/đặt lịch tư vấn: 0987 892 333
Điều 187. Quyền chiếm hữu của người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản
1. Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản thực hiện việc chiếm hữu tài sản đó trong phạm vi, theo cách thức, thời hạn do chủ sở hữu xác định.
2. Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản không thể trở thành chủ sở hữu đối với tài sản được giao theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này.
Trên đây là quan điểm trả lời của Luật Minh Bạch. Bài viết trên chỉ mang tính chất tham khảo, để được hỗ trợ và tư vấn cụ thể hơn, quý bạn đọc vui lòng liên hệ theo địa chỉ:
Công ty Luật Minh Bạch
Phòng 703, số 272 Khương Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội
Áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (LTXNK)
Ảnh minh họa
Tổng cục Hải quan vừa ban hành Công văn 8600/TCHQ-TXNK về việc áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (LTXNK). Theo đó:
– Hàng nhập khẩu theo Điểm a Khoản 3 Điều 5 LTXNK thì áp dụng mức thuế suất ưu đãi quy định cho từng mặt hàng tại hướng dẫn tại Mục I, II, III Phụ lục II Nghị định 122/2016/NĐ-CP .
– Hàng nhập khẩu theo Điểm b Khoản 3 Điều 5 LTXNK thì áp dụng mức thuế suất quy định tại các Nghị định ban hành Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt của Việt Nam để thực hiện các Hiệp định Thương mại tự do.
– Hàng nhập khẩu theo Điểm c Khoản 3 Điều 5 LTXNK (không thuộc các trường hợp nêu trên) thì áp dụng thuế suất thông thường như sau:
+ Đối với các mặt hàng thuộc danh mục quy định tại Phụ lục ban hành kèm theo Quyết định 36/QĐ-TTg năm 2016 thì áp dụng thuế suất là 5%;
+ Đối với các mặt hàng còn lại thì áp dụng thuế suất bằng 150% mức thuế tương ứng được quy định tại Mục I, II, III Phụ lục II Nghị định 122/2016/NĐ-CP .
Căn cứ theo Luật xử phạt vi phạm hành chính 2012, tại điều 56 của Luật này có quy định cụ thể:
“Xử phạt vi phạm hành chính không lập biên bản được áp dụng trong trường hợp xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với tổ chức và người có thẩm quyền xử phạt phải ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính tại chỗ.”
Theo quy định trên thì các hành vi vi phạm dưới 250.000 đồng sẽ được nộp phạt trực tiếp. Như vậy, theo quy định tại Nghị định 46/2016/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt thì những lỗi vi phạm đối với phương tiện giao thông đường bộ dưới 250.000 đồng có 57 lỗi được quy định cụ thể đối với ô tô, xe máy và xe thô sơ, cụ thể được liệt kê sau đây:
STT
Hành vi
Phương tiện vi phạm
Mức phạt tiền
Căn cứ pháp lý
(Nghị định 46)
01
Không chấp hành hiệu lệnh, chỉ dẫn của biển báo hiệu, vạch kẻ đường
Ô tô
Từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng
Điểm a Khoản 1 Điều 5
Xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện
Từ 60.000 đồng đến 80.000 đồng
Điểm a Khoản 1 Điều 6
Xe đạp, xe đạp máy
Từ 50.000 đồng đến 60.000 đồng
Điểm c Khoản 1 Điều 8
02
Chuyển hướng không nhường quyền đi trước cho: Người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật qua đường tại nơi có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ; xe thô sơ đang đi trên phần đường dành cho xe thô sơ
Ô tô
Từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng
Điểm b Khoản 1 Điều 5
Xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện
Từ 60.000 đồng đến 80.000 đồng
Điểm d Khoản 1 Điều 6
03
Chuyển hướng không nhường đường cho: Các xe đi ngược chiều; người đi bộ, xe lăn của người khuyết tật đang qua đường tại nơi không có vạch kẻ đường cho người đi bộ
Ô tô
Từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng
Điểm c Khoản 1 Điều 5
Xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện
Từ 60.000 đồng đến 80.000 đồng
Điểm đ Khoản 1 Điều 6
04
Không giữ khoảng cách an toàn để xảy ra va chạm với xe chạy liền trước hoặc không giữ khoảng cách theo quy định của biển báo hiệu “Cự ly tối thiểu giữa hai xe”
Ô tô
Từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng
Điểm g Khoản 1 Điều 5
Xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện
Từ 60.000 đồng đến 80.000 đồng
Điểm c Khoản 1 Điều 6
05
Dừng xe, đỗ xe không có tín hiệu báo cho người điều khiển phương tiện khác biết
Ô tô
Từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng
Điểm d Khoản 1 Điều 5
06
Đỗ xe chiếm một phần đường xe chạy không đặt ngay báo hiệu nguy hiểm theo quy định
Ô tô
Từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng
Điểm đ Khoản 1 Điều 5
07
Không gắn biển báo hiệu ở phía trước xe kéo, phía sau xe được kéo; điều khiển xe kéo rơ moóc không có biển báo hiệu theo quy định
Ô tô
Từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng
Điểm e Khoản 1 Điều 5
08
Không tuân thủ các quy định về nhường đường tại nơi đường bộ giao nhau
Ô tô
Từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng
Điểm h Khoản 1 Điều 5
09
Bấm còi trong đô thị và khu đông dân cư trong thời gian từ 22 giờ ngày hôm trước đến 05 giờ ngày hôm sau mà không phải là xe ưu tiên đi làm nhiệm vụ
Ô tô
Từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng
Điểm i Khoản 1 Điều 5
10
Không thắt dây an toàn (tại vị trí có trang bị dây an toàn) khi xe đang chạy
Ô tô
Từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng
Điểm k Khoản 1 Điều 5
11
Chở người trên xe ô tô không thắt dây an toàn (tại vị trí có trang bị dây an toàn) khi xe đang chạy
Ô tô
Từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng
Điểm l Khoản 1 Điều 5
12
Không có báo hiệu xin vượt trước khi vượt
Xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện
Từ 60.000 đồng đến 80.000 đồng
Điểm b Khoản 1 Điều 6
13
Lùi xe mô tô ba bánh không quan sát hoặc không có tín hiệu báo trước
Xe mô tô
Từ 60.000 đồng đến 80.000 đồng
Điểm e Khoản 1 Điều 6
14
Sử dụng đèn chiếu xa khi tránh xe đi ngược chiều
Xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện
Từ 60.000 đồng đến 80.000 đồng
Điểm g Khoản 1 Điều 6
15
Chở người ngồi trên xe sử dụng ô (dù)
Xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện
Từ 60.000 đồng đến 80.000 đồng
Điểm h Khoản 1 Điều 6
16
Không tuân thủ các quy định về nhường đường tại nơi đường giao nhau
Xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện
Từ 60.000 đồng đến 80.000 đồng
Điểm i Khoản 1 Điều 6
17
Chuyển làn đường không đúng nơi được phép hoặc không có tín hiệu báo trước
Xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện
Từ 60.000 đồng đến 80.000 đồng
Điểm a Khoản 2 Điều 6
18
Điều khiển xe chạy dàn hàng ngang từ 3 (ba) xe trở lên
Xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện
Từ 60.000 đồng đến 80.000 đồng
Điểm b Khoản 2 Điều 6
19
Không sử dụng đèn chiếu sáng trong thời gian từ 19 giờ ngày hôm trước đến 05 giờ ngày hôm sau hoặc khi sương mù, thời tiết xấu hạn chế tầm nhìn
Xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện
Từ 80.000 đồng đến 100.000 đồng
Điểm c Khoản 2 Điều 6
20
Không nhường đường cho xe xin vượt khi có đủ điều kiện an toàn; không nhường đường cho xe đi trên đường ưu tiên, đường chính từ bất kỳ hướng nào tới tại nơi đường giao nhau
Xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện
Từ 80.000 đồng đến 100.000 đồng
Điểm d Khoản 2 Điều 6
21
Tránh xe không đúng quy định; không nhường đường cho xe đi ngược chiều theo quy định tại nơi đường hẹp, đường dốc, nơi có chướng ngại vật
Xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện
Từ 80.000 đồng đến 100.000 đồng
Điểm đ Khoản 2 Điều 6
22
Bấm còi trong thời gian từ 22 giờ ngày hôm trước đến 05 giờ ngày hôm sau, sử dụng đèn chiếu xa trong đô thị, khu đông dân cư, trừ các xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ theo quy định
Xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện
Từ 80.000 đồng đến 100.000 đồng
Điểm e Khoản 2 Điều 6
23
Xe được quyền ưu tiên lắp đặt, sử dụng thiết bị phát tín hiệu ưu tiên không đúng quy định hoặc sử dụng thiết bị phát tín hiệu ưu tiên mà không có Giấy phép của cơ quan có thẩm quyền cấp hoặc có Giấy phép của cơ quan có thẩm quyền cấp nhưng không còn giá trị sử dụng theo quy định
Xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện
Từ 80.000 đồng đến 100.000 đồng
Điểm g Khoản 2 Điều 6
24
Quay đầu xe tại nơi cấm quay đầu xe
Xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện
Từ 80.000 đồng đến 100.000 đồng
Điểm h Khoản 2 Điều 6
25
Dừng xe, đỗ xe trên phần đường xe chạy ở đoạn đường ngoài đô thị nơi có lề đường
Xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện
Từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng
Điểm a Khoản 3 Điều 6
Xe đạp, xe đạp máy
Từ 50.000 đồng đến 60.000 đồng
Điểm đ Khoản 1 Điều 8
26
Không giảm tốc độ hoặc không nhường đường khi điều khiển xe chạy từ trong ngõ, đường nhánh ra đường chính
Xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện
Từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng
Điểm b Khoản 3 Điều 6
27
Điều khiển xe chạy tốc độ thấp mà không đi bên phải phần đường xe chạy gây cản trở giao thông
Xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện
Từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng
Điểm d Khoản 3 Điều 6
28
Dừng xe, đỗ xe ở lòng đường đô thị gây cản trở giao thông; tụ tập từ 03 (ba) xe trở lên ở lòng đường, trong hầm đường bộ; đỗ, để xe ở lòng đường đô thị, hè phố trái quy định của pháp luật
Xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện
Từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng
Điểm đ Khoản 3 Điều 6
29
Bấm còi, rú ga (nẹt pô) liên tục trong đô thị, khu đông dân cư, trừ các xe ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ theo quy định
Xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện
Từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng
Điểm e Khoản 3 Điều 6
30
Xe không được quyền ưu tiên lắp đặt, sử dụng thiết bị phát tín hiệu của xe được quyền ưu tiên
Xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện
Từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng
Điểm g Khoản 3 Điều 6
31
Dừng xe, đỗ xe trên đường xe điện, điểm dừng đón trả khách của xe buýt, nơi đường bộ giao nhau, trên phần đường dành cho người đi bộ qua đường; dừng xe nơi có biển “Cấm dừng xe và đỗ xe”; đỗ xe tại nơi có biển “Cấm đỗ xe” hoặc biển “Cấm dừng xe và đỗ xe”; không tuân thủ các quy định về dừng xe, đỗ xe tại nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt; dừng xe, đỗ xe trong phạm vi an toàn của đường sắt
Xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện
Từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng
Điểm h Khoản 3 Điều 6
32
Không đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy” hoặc đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy” không cài quai đúng quy cách khi tham gia giao thông trên đường bộ
Xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện
Từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng
Điểm i Khoản 3 Điều 6
Xe đạp máy
Từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng
Điểm d Khoản 4 Điều 8
33
Chở người ngồi trên xe không đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy” hoặc đội “mũ bảo hiểm cho người đi mô tô, xe máy” không cài quai đúng quy cách, trừ trường hợp chở người bệnh đi cấp cứu, trẻ em dưới 06 tuổi, áp giải người có hành vi vi phạm pháp luật
Xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện
Từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng
Điểm k Khoản 3 Điều 6
34
Chở theo 02 (hai) người trên xe, trừ trường hợp chở người bệnh đi cấp cứu, trẻ em dưới 14 tuổi, áp giải người có hành vi vi phạm pháp luật
Xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện
Từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng
Điểm l Khoản 3 Điều 6
35
Người ngồi phía sau vòng tay qua người ngồi trước để điều khiển xe, trừ trường hợp chở trẻ em ngồi phía trước
Xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện
Từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng
Điểm n Khoản 3 Điều 6
36
Sử dụng ô (dù), điện thoại di động, thiết bị âm thanh khi đang điều khiển xe, trừ thiết bị trợ thính
Xe mô tô, xe gắn máy, xe đạp điện
Từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng
Điểm o Khoản 3 Điều 6
37
Không đi bên phải theo chiều đi của mình, đi không đúng phần đường quy định
Xe đạp, xe đạp máy
Từ 50.000 đồng đến 60.000 đồng
Điểm a Khoản 1 Điều 8
38
Dừng xe đột ngột; chuyển hướng không báo hiệu trước
Xe đạp, xe đạp máy
Từ 50.000 đồng đến 60.000 đồng
Điểm b Khoản 1 Điều 8
39
Vượt bên phải trong các trường hợp không được phép
Xe đạp, xe đạp máy
Từ 50.000 đồng đến 60.000 đồng
Điểm d Khoản 1 Điều 8
40
Chạy trong hầm đường bộ không có đèn hoặc vật phát sáng báo hiệu; dừng xe, đỗ xe trong hầm đường bộ không đúng nơi quy định; quay đầu xe trong hầm đường bộ
Xe đạp, xe đạp máy
Từ 50.000 đồng đến 60.000 đồng
Điểm e Khoản 1 Điều 8
41
Đi dàn hàng ngang từ 03 (ba) xe trở lên
Xe đạp, xe đạp máy
Từ 50.000 đồng đến 60.000 đồng
Điểm g Khoản 1 Điều 8
42
Sử dụng ô (dù), điện thoại di động; người ngồi trên xe đạp, xe đạp máy sử dụng ô (dù)
Xe đạp, xe đạp máy
Từ 50.000 đồng đến 60.000 đồng
Điểm h Khoản 1 Điều 8
43
Để xe ở lòng đường đô thị, hè phố trái quy định của pháp luật; đỗ xe ở lòng đường đô thị gây cản trở giao thông, đỗ xe trên đường xe điện, đỗ xe trên cầu gây cản trở giao thông
Xe đạp, xe đạp máy
Từ 60.000 đồng đến 80.000 đồng
Điểm a Khoản 2 Điều 8
44
Không tuân thủ các quy định về dừng xe, đỗ xe tại nơi đường bộ giao nhau cùng mức với đường sắt
Xe đạp, xe đạp máy
Từ 60.000 đồng đến 80.000 đồng
Điểm b Khoản 2 Điều 8
45
Không nhường đường cho xe xin vượt khi có đủ điều kiện an toàn hoặc gây cản trở đối với xe cơ giới xin vượt, gây cản trở xe ưu tiên
Xe đạp, xe đạp máy
Từ 60.000 đồng đến 80.000 đồng
Điểm c Khoản 2 Điều 8
46
Dùng xe đẩy làm quầy hàng lưu động trên đường, gây cản trở giao thông
Xe đạp, xe đạp máy
Từ 60.000 đồng đến 80.000 đồng
Điểm d Khoản 2 Điều 8
47
Không nhường đường cho xe đi trên đường ưu tiên, đường chính từ bất kỳ hướng nào tới tại nơi đường giao nhau
Xe đạp, xe đạp máy
Từ 60.000 đồng đến 80.000 đồng
Điểm đ Khoản 2 Điều 8
48
Chở quá số người quy định, trừ trường hợp chở người bệnh đi cấp cứu
Xe đạp, xe đạp máy
Từ 60.000 đồng đến 80.000 đồng
Điểm e Khoản 2 Điều 8
49
Xếp hàng hóa vượt quá giới hạn quy định, không bảo đảm an toàn, gây trở ngại giao thông, che khuất tầm nhìn của người điều khiển
Xe đạp, xe đạp máy
Từ 60.000 đồng đến 80.000 đồng
Điểm g Khoản 2 Điều 8
50
Không chấp hành hiệu lệnh của đèn tín hiệu giao thông
Xe đạp, xe đạp máy
Từ 60.000 đồng đến 80.000 đồng
Điểm h Khoản 2 Điều 8
51
Buông cả hai tay; chuyển hướng đột ngột trước đầu xe cơ giới đang chạy; dùng chân điều khiển xe đạp, xe đạp máy
Xe đạp, xe đạp máy
Từ 80.000 đồng đến 100.000 đồng
Điểm a Khoản 3 Điều 8
52
Không chấp hành hiệu lệnh, chỉ dẫn của người điều khiển giao thông hoặc người kiểm soát giao thông
Xe đạp, xe đạp máy
Từ 80.000 đồng đến 100.000 đồng
Điểm b Khoản 3 Điều 8
53
Người điều khiển hoặc người ngồi trên xe bám, kéo, đẩy xe khác, vật khác, mang vác vật cồng kềnh; điều khiển xe kéo theo xe khác, vật khác
Xe đạp, xe đạp máy
Từ 80.000 đồng đến 100.000 đồng
Điểm c Khoản 3 Điều 8
54
Lạng lách, đánh võng; đuổi nhau trên đường
Xe đạp, xe đạp máy
Từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng
Điểm a Khoản 4 Điều 8
55
Đi xe bằng một bánh đối với xe đạp, xe đạp máy
Xe đạp, xe đạp máy
Từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng
Điểm b Khoản 4 Điều 8
56
Gây tai nạn giao thông không dừng lại, không giữ nguyên hiện trường, bỏ trốn không đến trình báo với cơ quan có thẩm quyền, không tham gia cấp cứu người bị nạn
Xe đạp, xe đạp máy
Từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng
Điểm c Khoản 4 Điều 8
57
Đi vào đường cấm, khu vực cấm; đi ngược chiều đường của đường một chiều, đường có biển “Cấm đi ngược chiều”
Tại đêm 23/10 vừa qua, tại Đồng Nai đã xảy ra vụ việc hơn 500 học viên trốn khỏi trại cai nghiện, đập phá đồ đạc, xin đểu ….gây náo loạn , và lo sợ cho người dân sinh sống xung quanh khu vực đó.
Xin luật sư cho biết,chế tài xử lý đối với hành vi này của các học viên là như thế nào?
Hình ảnh minh họa
Luật sư trả lời:
Nghị định 94/2010/NĐ-CP của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống ma túy về quản lý sau cai nghiện ma túy, quy định:
“Cai nghiện ma túy là việc áp dụng các hoạt động điều trị, tư vấn, học tập, lao động, rèn luyện nhằm giúp cho người nghiện ma túy phục hồi về sức khỏe, nhận thức, tâm lý và hành vi, nhân cách để trở về tình trạng bình thường.”
Cai nghiện không phải là biện pháp hình sự
Việc cai nghiện ma túy có thể được áp dụng đối với các đối tượng tự nguyện hoặc là bắt buộc.
Đối với các đối tượng tự nguyện, hành vi này có thể được coi là từ bỏ việc cai nghiện.
Đối với các đối tượng bắt buộc thì sẽ bị xem xét một số biện pháp hành chính về quản lý sau khi đưa họ quay trở lại trại cai nghiện.
Tuy nhiên, trong vụ việc lần này có nhiều hành vi và yếu tố mà hoàn toàn có khả năng truy cứu trách nhiệm hình sự.
Cụ thể việc một số học viên có hành vi đập phá tài sản, đánh người, chặn đường xin đểu…. phải bị điều tra làm rõ và xử lý đúng theo quy định của pháp luật.
Tùy theo mức độ hành vi và hậu quả gây ra, những học viên này có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo Nghị định 167/2013/NĐ-CPvề xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội. hoặc có thể bị truy tố với tội danh gây rối trật tự công cộng theo Điều 245 BLHS 2009.
Đối với hành vi đánh người thì có thể bị truy tố với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác theo Điều 104 BLHS 2009.
Đối với hành vi đập phá đồ đạc của người dân có thể bị truy tố với tội Huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản theo Điều 143 Bộ Luật Hình sự 2009.