Phân tích Điều 7 Luật Doanh nghiệp 2020

Phân Tích Chi Tiết Điều 7 Luật Doanh Nghiệp 2020: Quyền của Doanh Nghiệp

Chào mừng bạn đến với bài phân tích chuyên sâu về Điều 7 của Luật Doanh nghiệp năm 2020. Điều luật này đóng vai trò quan trọng trong việc xác định khung pháp lý cho hoạt động của doanh nghiệp tại Việt Nam, quy định rõ ràng về quyền mà mỗi doanh nghiệp phải tuân thủ. Bài viết này sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn về các nội dung chính yếu, ý nghĩa và ảnh hưởng của Điều 7 Luật Doanh nghiệp 2020 đến hoạt động kinh doanh.

Quyền của Doanh Nghiệp theo Điều 7 Luật Doanh Nghiệp 2020

Điều 7 Luật Doanh nghiệp 2020 không chỉ quy định về quyền của doanh nghiệp mà còn bảo vệ quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp. Cụ thể, doanh nghiệp có quyền:

  • Tự do kinh doanh trong những ngành, nghề mà luật không cấm: Đây là quyền cơ bản, đảm bảo doanh nghiệp được tự do lựa chọn lĩnh vực kinh doanh phù hợp với năng lực và định hướng phát triển của mình.
  • Chủ động lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ và sử dụng vốn: Doanh nghiệp có quyền tự quyết định cách thức quản lý và sử dụng nguồn vốn, miễn là tuân thủ các quy định của pháp luật.
  • Chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng và ký kết hợp đồng: Doanh nghiệp được tự do mở rộng mạng lưới kinh doanh, tìm kiếm đối tác và xây dựng mối quan hệ thương mại.
  • Kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu: Quyền này cho phép doanh nghiệp tham gia vào thị trường quốc tế, mở rộng phạm vi hoạt động và tăng cường khả năng cạnh tranh.
  • Tuyển dụng, thuê lao động theo quy định của pháp luật về lao động: Doanh nghiệp có quyền tự chủ trong việc quản lý nhân sự, đảm bảo có đủ nguồn lực để thực hiện các hoạt động kinh doanh.
  • Chủ động ứng dụng khoa học và công nghệ để nâng cao hiệu quả kinh doanh và khả năng cạnh tranh: Khuyến khích doanh nghiệp đổi mới sáng tạo, áp dụng công nghệ tiên tiến để phát triển bền vững.
  • Khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật: Doanh nghiệp có quyền bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình khi bị xâm phạm.
  • Tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật: Đảm bảo quyền được bảo vệ trước pháp luật khi có tranh chấp xảy ra.
  • Các quyền khác theo quy định của pháp luật: Điều này mở ra khả năng doanh nghiệp được hưởng thêm các quyền khác, tùy thuộc vào từng lĩnh vực kinh doanh cụ thể và các quy định pháp luật liên quan.

Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền của doanh nghiệp

Việc bảo vệ các quyền của doanh nghiệp, được quy định trong Điều 7 Luật Doanh nghiệp 2020, có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, khuyến khích sự sáng tạo và đầu tư, từ đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế. Khi doanh nghiệp cảm thấy an toàn và được bảo vệ, họ sẽ sẵn sàng đầu tư vào các dự án dài hạn, tạo ra nhiều việc làm và đóng góp vào ngân sách nhà nước.

Kết luận

Điều 7 Luật Doanh nghiệp 2020 là một điều luật quan trọng, quy định chi tiết về quyền của doanh nghiệp. Việc hiểu rõ và tuân thủ các quy định này là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp hoạt động hiệu quả và bền vững. Hy vọng bài viết này đã cung cấp cho bạn những thông tin hữu ích và giúp bạn nắm vững hơn về Luật Doanh nghiệp.

0.0 sao của 0 đánh giá

Bài viết liên quan

Thủ tục Công dân Việt Nam nhận trẻ em nước ngòai làm con nuôi

Nộp hồ sơ trực tiếp tại Bộ tư pháp 

Yêu cầu : 

1. Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;

2. Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên – không áp dụng đối với trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu,dì, chú bác ruột nhận cháu làm con nuôi;

3. Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi – không áp dụng đối với trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu,dì, chú bác ruột nhận cháu làm con nuôi;

4. Có tư cách đạo đức tốt.

Các trường hợp không được nhận con nuôi

1. Đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên;

2. Đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh;

3. Đang chấp hành hình phạt tù;

4. Chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.

Trình tự thực hiện : 

Bước 1.Công dân Việt Nam nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi nộp hồ sơ tại Bộ Tư pháp;

Bước 2.Bộ Tư pháp xem xét, cấp giấy xác nhận người nhận con nuôi có đủ điều kiện nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật Việt Nam;

Bước 3.Sở Tư pháp và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người nhận con nuôi nước ngoài thường trú ghi chú việc nuôi con nuôi. 

Thành phần hồ sơ : 

Hồ sơ của người nhận con nuôi:

1.Đơn xin nhận con nuôi theo mẫu quy định; (Bản chính)

2. Hộ chiếu/Chứng minh nhân dân hoặc giấy tờ có giá trị thay thế; (Bảo sao)

3. Phiếu lý lịch tư pháp; (Bản chính, được cấp chưa quá 06 tháng)

4. Văn bản xác nhận tình trạng hôn nhân (Bản sao nếu là Giấy chứng nhận kết hôn hoặc bản gốc nếu là giấy xác nhận tình trạng độc thân).

5. Giấy khám sức khỏe do cơ sở y tế cấp huyện trở lên cấp (Bản chính, được cấp chưa quá 06 tháng);

6. Văn bản xác nhận hoàn cảnh gia đình, tình trạng chỗ ở, điều kiện kinh tế do UBND cấp xã nơi người nhận con nuôi thường trú cấp (trường hợp cha dượng, mẹ kế hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi thì không cần văn bản này) (bản chính, được cấp chưa quá 06 tháng).

Thời gian thực hiện : 15 ngày (nếu cần xác minh có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày).

 

Mục 2, chương 3 Bộ luật dân sự 2015 : Quyền nhân thân

Mục 2, chương 3 Bộ luật dân sự 2015 quy định về quyền nhân thân, bao gồm từ điều 25 đến điều 39 quy định về tất cả các quyền nhân thân liên quan đến con người. Cụ thể :

Điều 25 : Quyền nhân thân 

Điều 26 : Quyền có họ, tên

Điều 27: Quyền thay đổi họ

Điều 28:Quyền thay đổi tên 

Điều 29 : Quyền xác định, xác định lại dân tộc

Điều 30: Quyền được khai sinh, khai tử 

Điều 31:Quyền đối với quốc tịch

Điều 32: Quyền của cá nhân đối với hình ảnh

Điều 33: Quyền sống, quyền được bảo đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể

Điều 34: Quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín 

Điều 35: Quyền hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác 

Điều 36: Quyền xác định lại giới tính

Điều 37: Chuyển đổi giới tính

Điều 38: Quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình

Điều 39: Quyền nhân thân trong hôn nhân và gia đình

Khó khăn cho dân khi bỏ sổ hộ khẩu giấy

Sau một khoảng thời gian thực hiện “khai tử” sổ hộ khẩu giấy, thay vào đó là sử dụng căn cước công dân (CCCD) đã giúp nhiều thủ tục hành chính bớt rườm rà. Người dân không cần phải xuất trình hộ khẩu, mọi thao tác sẽ được cán bộ tư pháp phường/xã hướng dẫn thực hiện trên máy tính. Tuy nhiên, lại xuất hiện những vướng mắc khi mà một số trường hợp thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn hoặc chuyển nhượng đất cần phải thực hiện giấy xác nhận cư trú. Thủ tục này có thể kéo dài thêm quá trình thực hiện từ 3 – 5 ngày. Hiện nay, dù mọi thông tin liên quan đến nơi cư trú đều đã được cập nhật lên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư nhưng dữ liệu chưa đủ dẫn đến tình trạng thiếu hoặc không khớp thông tin cư dân. Theo quan điểm của Luật sư Trần Tuấn Anh (Giám đốc công ty Luật Minh Bạch), đây là vấn đề xuất phát từ hai phía, cả người dân và cơ quan Nhà nước và đã có những kiến nghị nhằm khắc phục tình trạng trên, “tránh đẩy cái khó về phía người dân”.

Đọc thêm tại đây

Trong trường hợp có yêu cầu tư vấn về pháp luật, quý khách vui lòng liên hệ theo số điện thoại: 0986.931.555 – Luật sư Trần Tuấn Anh, Giám đốc Công ty Luật Minh Bạch sẽ tư vấn miễn phí cho quý khách. Trân trọng!

Vấn nạn “cát tặc” và các vấn đề pháp lý.

Vụ việc

Vấn nạn khai thác cát trái phép hay người dân vẫn quen gọi là “cát tặc” gây ảnh hưởng tới hàng ngàn ha hoa màu biến mất, hàng vạn gia đình bị ảnh hưởng trực tiếp bởi.Đây là thực tế gây nhức nhối tại nhiều địa phương trong thời gian gần đây,hành vi trái pháp luật này dẫn đến tình trạng dân mất đất, tỉnh mất tài nguyên.

Để đối phó với vấn nạn này thì các ban nghành liên quan có trách nhiệm như thế nào? Có biện pháp gì để ngăn chặn tình trạng này xảy ra? Trách nhiệm pháp lý đối với các đối tượng ngang nhiên khai thác cái trái phép này ra sao?

cattac

Luật sư Trần Tuấn Anh (giám đốc công ty Luật Minh Bạch) nhận định:

Dưới góc độ pháp luật thì Luật Khoáng sản 2010 đã quy định rất rõ trách nhiệm của UBND các cấp (tức chính quyền địa phương) phải có trách nhiệm bảo vệ khoáng sản chưa khai thác trên địa bàn do mình quản lý.

“Điều 18. Trách nhiệm bảo vệ khoáng sản chưa khai thác của Ủy ban nhân dân các cấp

  1. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm:a) Ban hành theo thẩm quyền hoặc hoặc trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền banhành văn bản để thi hành pháp luật về khoáng sản tại địa phương;b) Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong việc bảo vệ khoáng sảnchưa khai thác;c) Tổ chức bảo vệ khoáng sản chưa khai thác;d) Huy động và chỉ đạo phối hợp các lực lượng trên địa bàn để giải tỏa, ngăn chặn hoạtđộng khoáng sản trái phép tại địa phương.
  2. Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Ủyban nhân dân cấp huyện) trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm:a) Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về khoáng sản tại địa phương;b) Chỉ đạo Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dâncấp xã) thực hiện các biện pháp bảo vệ khoáng sản chưa khai thác; huy động và chỉ đạophối hợp các lực lượng trên địa bàn để giải tỏa, ngăn chặn hoạt động khoáng sản trái phép.
  3. Ủy ban nhân dân cấp xã trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hoạt động khoáng sản trái phép; phối hợp với các cơ quan chức năng bảo vệ khoáng sản chưa khai thác trên địa bàn.”

Trách nhiệm thì đã rõ là như vậy, tuy nhiên, chế tài cụ thể đối với các cấp chính quyền lại không có. Vì vậy, nếu có sự sai phạm thì cũng chỉ dừng lại ở việc kiểm điểm, rút kinh nghiệm hay nặng hơn là cách chức, thuyên chuyển công tác của những người có thẩm quyền. Tôi cho rằng, đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc các cấp chính quyền địa phương chưa quyết liệt trong xử lý cát tặc.

Còn về vấn đề bảo kê thì đến nay chưa có tài liệu gì chứng minh và cũng chưa có một chính quyền địa phương nào bị xử lý trước pháp luật về việc này. Tuy nhiên, dưới góc độ xã hội, rõ ràng là đang có sự phân chia lợi ích thu được từ việc khai thác cát trái phép giữa các nhóm lợi ích. Bởi không bỗng dưng mà những con tàu hút cát khổng lồ hay hàng trăm chiếc xe tải chạy cả ngày lẫn đêm lại có thể “tàng hình” trước mắt các cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương. Trong khi đó, người dân nào cũng biết. Như vậy, nếu không là hoạt động bảo kê thì cũng là sự bao che, dung túng cho hoạt động trái pháp luật được tồn tại của các cấp chính quyền địa phương.

Đôi khi, chính quyền địa phương thường đưa ra lý do như lực lượng mỏng, cát tặc hoạt động tinh vi ….v.v, tuy nhiên, đây là những lý do không chính đáng, bởi làm gì có chuyện người dân còn biết, truyền hình còn quay về quay được mà cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương lại không biết. Hơn nữa, tình trạng cát tặc hoạt động ngang nhiên, thách thức cả các lực lượng chức năng thì không thể nói là “hoạt động tinh vi” đến mức chính quyền địa phương không thể phát hiện ra được.

Trong trường hợp đúng là có sự bảo kê của chính quyền địa phương thì những người bảo kê này sẽ bị xử lý là đồng phạm với những người thực hiện hành vi khai thác cát trái phép. Với hành vi này, người thực hiện có thể bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định 142/2013/NĐ-CP hoặc trong trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 172 BLHS về hành vi vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên. Tuy nhiên, pháp luật là vậy, song gần như chưa có trường hợp nào bị xử lý hình sự liên quan đến việc khai thác cát trái phép.

 

 

Quy định “cấm xe máy” đã trở thành sự thật

Hôm nay (20/4), tại TP.HCM diễn ra hội thảo về kiểm soát nhu cầu sử dụng xe cá nhân trên địa bàn TP.HCM.

Việc phát triển vận tải hành khách công cộng gắn với lộ trình hạn chế xe cá nhân

Hôm nay (20/4), tại TP.HCM diễn ra hội thảo về kiểm soát nhu cầu sử dụng xe cá nhân trên địa bàn TP.HCM – thực trạng và giải pháp (Liên hiệp các Hội KH&KT TP phối hợp với Sở GTVT TP HCM tổ chức). Hội thảo sẽ có nhiều ý kiến của các chuyên gia uy tín về việc TP HCM cần có lộ trình hạn chế, tiến tới loại bỏ hoàn toàn xe máy tham gia giao thông đô thị.

Xe máy, thủ phạm kẹt xe và TNGT

Theo PGS.TS. Phạm Xuân Mai (ĐH Bách khoa TP.HCM), hiện TP.HCM có khoảng 7,5 triệu xe gắn máy, tăng gần 2 triệu so năm 2011. Vào giờ cao điểm, lượng xe gắn máy lên tới 11.000 xe/giờ, chiếm 93% tổng lưu lượng các loại xe. Trung bình TP có 910 xe máy/1.000 dân, đây là tỷ lệ cao nhất thế giới. Xe máy đang gây ra kẹt xe, TNGT (số vụ TNGT do xe máy chiếm 71%). Do vậy, xe máy không được xem là loại hình giao thông cá nhân mà cần phải hạn chế xuống dưới 40%.

“Tuy nhiên, chúng ta không thể hạn chế xe máy nếu người dân không có phương tiện thay thế và không gì khác phải là hệ thống giao thông công cộng. Bởi vậy, việc phát triển giao thông công cộng (GTCC) phải đi trước một bước và có cách hợp lý”, PGS. Mai nói và chỉ ra nhiều giải pháp hạn chế xe máy như: Tổ chức quản lý các loại xe máy đăng ký mới thông qua giấy chứng nhận quyền mua xe, phí lưu hành xe, phí kẹt xe tùy thuộc vào phạm vi khu vực, càng vào trung tâm TP, xe máy càng phải đóng tiền giữ xe cao, phí ô nhiễm môi trường…

“Trong điều kiện tài chính yếu như Việt Nam, giải pháp xe buýt và xe buýt nhanh BRT là phù hợp nhất”, PGS. Mai nói thêm.

Trong khi đó, TS. Nguyễn Thị Bích Hằng, Trường ĐH GTVT – Phân hiệu  TP.HCM 2 nhận định, TP đang có những định hướng sai trong việc quản lý chỗ đậu xe. TP đang tập trung tăng cung bãi đậu xe, trong khi trên thế giới để kiểm soát xe cá nhân đã áp dụng quy định về số chỗ đỗ xe tối đa được phép cung cấp. Tăng cung tất yếu sẽ dẫn đến tăng cầu, khuyến khích người dân sử dụng phương tiện cá nhân khi điều kiện đậu xe quá thuận lợi. TP có xu hướng coi đậu xe như một dịch vụ xã hội, cho người sử dụng miễn phí, giá thấp.

“Đây là quan điểm đi ngược lại mục tiêu khuyến khích phát triển giao thông công cộng. Đã đến lúc phải xác định lại đối tượng phục vụ của hệ thống giao thông nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân không phải để lưu thông phương tiện giao thông. Cần chuyển từ tăng cung hạ tầng giao thông sang quản lý nhu cầu đi lại của người dân”, TS. Hằng nói.

Cần có lộ trình hạn chế xe máy

Theo ông Lê Trung Tính, Chủ tịch Hiệp hội vận tải hành khách liên tỉnh và du lịch TP.HCM, phát triển vận tải công cộng phải đi trước một bước rồi mới hạn chế xe cá nhân. Kinh nghiệm ở Quảng Châu, Trung Quốc cho thấy, họ có cả một hệ thống công cộng đầy đủ như metro, BRT, xe buýt nhưng xe máy cũng chỉ dưới 1 triệu và họ vẫn quyết tâm thực hiện từng bước: Từ hạn chế đến cấm và cuối cùng là tiêu hủy cả những xe 2 bánh không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh môi trường, theo một lộ trình dài 16 năm.

Để hạn chế xe cá nhân, theo ông Tính cần áp dụng các xe biển số chẵn lẻ lưu thông ngày chẵn, lẻ và ngược lại. Thu phí cá nhân vào các điểm kẹt xe, thu phí cao chỗ đỗ xe dành cho xe cá nhân trong khu vực trung tâm, phí môi trường… Những xe máy đã quá niên hạn sử dụng, cũ nát cần thu hồi và loại bỏ.

Cùng quan điểm, TS. Lương Hoài Nam, chuyên gia kinh tế cho rằng, cần hạn chế và tiến tới loại bỏ xe máy, nhanh chóng lấy xe buýt thay xe máy trên toàn thành phố; Từng bước lấy mạng lưới giao thông công cộng cao tốc thay xe buýt trên một số tuyến trục theo khả năng tài chính. Không ít thành phố ở Trung Quốc đã cấm xe máy khi còn chưa có mạng lưới giao thông này, hay nhiều TP ở châu Âu cũng không có xe máy.

Theo TS. Nam, đối với xe máy cần có lộ trình hạn chế và tiến tới loại bỏ hoàn toàn ra khỏi giao thông đô thị. Trên cơ sở đó xây dựng đề án chi tiết và lấy ý kiến người dân trước khi phê duyệt. Nếu lấy xe buýt là phương tiện giao thông công cộng chủ lực, thì lộ trình loại bỏ xe gắn máy tối đa là 15 năm. “Cần quy hoạch phát triển mạng xe buýt của TP.HCM cho 20-30 năm tới.Một mạng lưới xe buýt hiệu quả cần cho phép người dân có khoảng cách đi bộ phổ biến giữa nhà và điểm đỗ buýt, giữa điểm đỗ buýt và nơi cần đến dưới 1km”, TS. Nam nói.

Đối với người dân sống trong ngõ hẻm, theo TS. Lương Hoài Nam, có thể khai thác loại xe buýt nhỏ (minibus), tuk-tuk… Các trạm trung chuyển nên xây ở các vị trí cạnh bến MRT trong tương lai. Đối với TP.HCM không nên phát triển mô hình BRT cửa trái, chạy làn đường ngoài cùng như Hà Nội đã triển khai mà nên lấy làn đường trong cùng sát vỉa hè làm làn buýt giống như các nước ở châu Âu. Ngoài ra các doanh nghiệp xe buýt cần điều hành tốt, quản lý chuyên nghiệp…

Đỗ Loan

Theo Báo Giao thông

Những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay

Áp dụng pháp luật chịu sự quy định, ảnh hưởng của nhiều yếu tố thuộc cả cơ sở hạ tầng lẫn kiến trúc thượng tầng pháp lý. Điều này làm cho việc áp dụng pháp luật phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, sau đây là một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình áp dụng pháp luật:

1.Hoạt động xây dựng pháp luật:

 Hoạt động áp dụng pháp luật có liên quan rất chặt chẽ với hoạt động xây dựng pháp luật. Để thực hiện và áp dụng pháp luật có hiệu quả trước hết phải có pháp luật tốt. Nói cụ thể hơn là phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh , đồng bộ , sát thực tế, phù hợp với các quy luật khách quan của sự phát triển kinh tế-xã hội, phù hợp với những điều kiện kinh tế , chính trị,văn hóa xã hội, tâm lí, tổ chức .mà trong đó pháp luật sẽ tác động, đáp ứng những nhu cầu đòi hỏi của đất nước ở mỗi thời kì phát triển . Sau khi đã ban hành pháp luật, vấn đề quan trọng có ảnh hưởng tới việc thực hiện , áp dụng pháp luật là tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho cán bộ và nhân dân để mọi người nắm được các quy định của pháp luật, từ đó họ có ý thức tự giác tuân theo pháp luật.

2.Trình độ văn hóa pháp lí của cán bộ và nhân dân và sự sáng tạo của mỗi cơ quan hoặc tổ chức :

trình độ pháp lí của cán bộ, nhân dân trong xã hội và sự sáng tạo của mỗi cơ quan hoặc tổ chức. Sự hoàn thiện của hoạt động áp dụng pháp luật đòi hỏi trình độ văn hóa pháp lí cao của cán bộ và nhân dân trong xã hội.Vì vậy cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân , tạo lòng tin của nhân dân vào pháp luật để từ đó họ có những hành vi pháp luật tích cực, biết sử dụng pháp luật vào việc bảo vệ quyền , lợi ích hợp pháp của mình cũng như của người khác và đấu tranh không khoan nhượng với các hiện tượng tiêu cực , vi phạm pháp luật trong xã hội. Trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan áp dụng pháp luật phải đảm bảo tính năng động , chủ động, sáng tạo , sự độc lập của mỗi cơ quan hoặc mỗi bộ phận đồng thời đảm bảo sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa các cơ quan, giữa các bộ phận cùng tham gia áp dụng pháp luật cũng như sự phối hợp, hợp tác giữa các cơ quan áp dụng pháp luật với các cơ quan khác của Nhà nước hoặc với các tổ chức xã hội .

3.Công tác tổ chức và cán bộ của các cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp luật:

Áp dụng pháp luật vốn là hoạt động do các cơ quan hoặc các chủ thể có thẩm quyền tiến hành như cơ quan hành chính, tòa án, viện kiểm sát,…Do tính chất quan trọng và phức tạp của hoạt động áp dụng pháp luật nên chủ thể bị áp dụng pháp luật có thể được hưởng lợi ích rất lớn nhưng cũng có thể phải chịu những hậu quả bất lợi nên trong pháp luật luôn có sự xác định rõ ràng cơ sở, điều kiện, trình tự thủ tục… của chủ thể trong quá trình áp dụng pháp luật. Chính vì vậy các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần được tổ chức một cách khoa học, có sự phân công rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của mỗi cơ quan, mỗi bộ phận để tránh hiện tượng chồng chéo, mâu thuẫn cản trở nhau trong công việc của các cơ quan này. Sự không thống nhất, không phân định rõ ràng phạm vi, lĩnh vực hoạt động hoặc thẩm quyền của các cơ quan dẫn đến có những vụ việc thì nhiều cơ quan tranh nhau giải quyết nhưng lại có những vụ việc thì đùm đẩy không cơ quan nào nhận trách nhiệm giải quyết. Trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan áp dụng pháp luật phải đảm bảo tính năng động, chủ động, sáng tạo, sự độc lập của mỗi cơ quan hoặc mỗi bộ phận đồng thời đảm bảo sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa các cơ quan, giữa các bộ phận cùng tham gia áp dụng pháp luật cũng như sự phối hợp, hợp tác giữa các cơ quan áp dụng pháp luật với các cơ quan khác của Nhà nước hoặc với các tổ chức xã hội.

4.Hoạt động của các cơ quan áp dụng pháp luật:

Đặc biệt, hoạt dộng của các cơ quan áp dụng pháp luật còn thể hiện ở sự thông thạo các công việc mà họ đảm nhận và thực hiện chúng với tinh thần trách nhiệm cao, tránh hiện tượng quan lieu, cửa quyền, sách nhiễu, trì trệ, giấy tờ hình thức hoặc thờ ơ lãnh đạm đối với số phận, tính mạng con người, với tài sản của nhà nước và nhân dân. Thực tế cho thấy sự quan liêu, chậm trễ, thiếu tinh thần trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc một số cán bộ có chức có quyền trong việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân dẫn dến nhiều vụ việc đơn giản lại trở nên phức tạp, nhiều sự oan ức bất bình trong nhân dân không giải quyết được gây ra hậu quả không thể lường trước.

5.Các văn bản áp dụng pháp luật:

Bởi tính hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng, sự tác động của các văn bản áp dụng pháp luật. Quá trình áp dụng pháp luật phải thông qua một số giai đoạn nhất định, các giai đoạn đó được thực hiện nhờ sự trợ giúp của các văn bản áp dụng pháp luật. Hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào văn bản áp dụng pháp luật. Do vậy các văn bản áp dụng pháp luật phải được ban hành phù hợp với một số yêu cầu sau : văn bản áp dụng pháp luật phải hợp pháp, nghĩa là nó được ban hành đúng thẩm quyền hoặc nhà chức trách chỉ được ban hành một số văn bản áp dụng pháp luật nhất định theo quy định của pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật phải được ban hành có cơ sở thực tế, nghĩa là nó được ban hành căn cứ vào những sự kiện, những đòi hỏi thực tế đầy đủ, chính xác và đáng tin cậy .

6.Ý thức pháp luật của người áp dụng pháp luật, người bị áp dụng pháp luật, chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật và chủ thể bị áp dụng pháp luật:

Ý thức pháp luật có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động áp dụng pháp luật. Tất cả các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật, chủ thể bị áp dụng pháp luật, người áp dụng pháp luật và người bị áp dụng pháp luật đều cần có ý thức pháp luật để điều chỉnh hành vi của mình và hành vi của các chủ thể khác phù hợp với much đich, yêu cầu của pháp luật. Âp dụng pháp luật là một qua trình phức tạp đòi hỏi người áp dụng pháp luật phải có ý thức pháp luật cao nếu không có ý thúc phap luật cao thì chủ thể bị áp dụng pháp luật sẽ rất khó để nhận thấy rằng ý thức pháp luật đã có tác động tích cực đến quá trình thực hiện nghiệp vụ của chủ thể tiến hành.

7.Những điều kiện vật chất – kỹ thuật cần thiết đảm bảo cho hoạt động áp dụng pháp luật:

Hoạt động áp dụng pháp luật còn chịu ảnh hưởng của những điều kiện đảm bảo cần thiết về vật chất – kỹ thuật. Nhiều văn bản pháp luật, nhiều quy định của pháp luật muốn thực hiện được trong thực tế đòi hỏi phải có một chi phí rất lớn về sức người và trang bị vật chất – kỹ thuật(Ví dụ như kinh phí để thực hiện áp dụng pháp luật). Hoạt động áp dụng pháp luật phải luôn tuân theo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tất cả các công đoạn, đấu tranh không khoan nhượng với những biểu hiện vi phạm pháp luật, những hành vi áp dụng pháp luật không đúng, không phù hợp .

Vụ cháu bé chết vì xe chở tôn: “Nhân tai” phải khắc phục

Việc bé trai học lớp 4 va chạm vào chiếc xích lô chở tôn dùng để lợp mái đang chuẩn bị dỡ hàng gây tử vong là thực tế rất đáng báo động về tình trạng vi phạm trật tự an toàn giao thông trên địa bàn thủ đô. Đây còn là sự cảnh báo với các cơ quan chức năng trong việc buông lỏng quản lý, xử phạt người điều khiển phương tiện giao thông vận chuyển hàng hóa không đảm bảo an toàn, gây nguy hiểm cho những người tham gia giao thông.

cho-cong-kenh-read-only-1474765473-1858

Ảnh minh họa

Trước vụ việc nghiêm trọng này, Luật sư Trần Tuấn Anh (Giám đốc công ty Luật Minh Bạch) nhận định:

Trước tiên, tôi xin chia buồn sâu sắc đối với những mất mát to lớn của gia đình nạn nhân. Cháu bé còn quá nhỏ để có thể nhận thức được sự vi phạm pháp luật của người lớn, tuy nhiên đã trở thành nạn nhân của nó. Giờ đây, mọi sự đền bù, khắc phục hậu quả, hình phạt …. sẽ chỉ còn mang tính thủ tục pháp lý và là trách nhiệm của những người còn sống đối với cái chết quá thương tâm của cháu.

Dưới góc độ pháp luật, người lái xích lô chở tôn là chủ thể duy nhất của hành vi vi phạm đến giờ phút này. Và cũng như những người vi phạm khác, người lái xích lô sẽ bị xử lý theo đúng quy định của pháp luật, nhận mức hình phạt tương ứng với lỗi cũng như hậu quả của hành vi mà mình gây ra. Có lẽ, trong trường hợp này, người lái xích lô sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về “Tội vô ý làm chết người” theo quy định tại Điều 98 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Song, dưới góc độ xã hội, góc độ tình người, trong trường hợp này tôi có cảm giác rằng cả cháu bé và người lái xích lô đều là nạn nhân. Nạn nhân của một xã hội thiếu kỷ cương pháp luật, một xã hội mà sự vi phạm pháp luật luôn diễn ra một cách ngang nhiên, trắng trợn, kéo dài, có hệ thống và chưa bao giờ bị xử lý triệt để. Một xã hội mà sự bon chen, vô cảm, khó khăn, túng quẫn có trong mọi cá nhân và mọi người dường như đang làm tất cả chỉ để kiếm tiền nhằm tồn tại mà quên đi ngay cả những điều quan trọng nhất chính là tính mạng, sức khỏe của mình và người thân trong gia đình. Hay nhìn theo một cách khoa học thì chúng ta quá thiếu những kỹ năng sống cần thiết.

Về người lái xích lô, ông là một cựu chiến binh, một người đã hi sinh một phần tuổi thanh xuân, xương máu của mình để cống hiến cho tổ quốc, một người cũng đã từng ở ranh giới của sự sống và cái chết. Có lẽ rằng, ông là người thấu hiểu nhất về nỗi đau thương và sự mất mát này, ý thức sâu sắc lỗi lầm mà mình đã gây ra và bản án lương tâm ông mới là hình phạt nặng nề nhất. Tôi cho rằng, ông ý thức được việc làm của mình là vi phạm, song, vì miếng cơm manh áo, vì cuộc sống mưu sinh, ông vẫn phải còng lung, gồng mình đạp những chuyến xích lô như vậy để kiếm chút tiền công để duy trì cả gia đình hết ngày này qua ngày khác.

Sự việc đáng tiếc này có thể làm chúng ta giật mình nhìn lại và chợt nhận ra rằng, không chỉ có một ông Thạch ở Hoàng Mai mà trên toàn bộ dải đất hình chữ S này, có tới hàng chục nghìn, hàng trăm nghìn, thậm chí là hàng triệu “ông Thạch” đang vận hành những “cỗ quan tài bay” đi trên đường với gánh nặng mưu sinh chất đầy trên đó.

Nói như vậy để thấy rằng, lỗi thì đương nhiên là có lỗi, hình phạt rồi cũng sẽ phải có, nhưng chúng ta cần nhìn nhận một cách thẳng thắn rằng: Đảng, Chính phủ của chúng ta chưa chăm lo được đời sống của người dân, chưa bảo vệ được người dân trước những “nhân họa” như vậy. Rõ ràng, nếu chúng ta có chính sách phúc lợi xã hội tốt, thì những người cựu chiến binh như ông Thạnh không phải bất chấp pháp luật chỉ vì mưu sinh khi đã cống hiến một phần xương máu để bảo vệ cho cuộc sống yên bình của chính chúng ta.

Một sự kiện, một hành vi, một hậu quả, một niềm đau nhưng lại là cả vấn đề lớn đối với toàn xã hội, một thách thức đối với Chính phủ trong việc bảo vệ người dân trước những “nhân tai” mà chúng ta có thể hoàn toàn khắc phục được. Người dân đang hi vọng một “Chính phủ kiến tạo”, “Chính phủ phục vụ” có những hành động quyết liệt, thực tế để bảo vệ cho chính cuộc sống của họ. Còn cá nhân tôi tin rằng, sẽ không còn những vụ tai nạn đáng tiếc như trên nếu Chính phủ của chúng ta thực hiện được những điều đã cam kết.

 

Có được giữ giấy tờ, văn bằng gốc của người lao động hay không?

Câu hỏi:

Chào Luật sư, tôi đăng ký tuyển dụng vào công ty A và họ yêu cầu giữ bằng đại học bản gốc của tôi. Họ đã làm bản cam kết sẽ trả lại khi 02 bên chấm dứt hợp đồng lao động. Đến nay, sau một thời gian làm việc, do có việc gia đình nên tôi xin nghỉ việc và được công ty đồng ý. Tuy nhiên công ty không trả bằng đại học bản gốc của tôi và cho biết là tôi phải nộp 10 triệu đồng  tiền phạt do chấm dứt hợp đồng trước thời hạn thì công ty mới trả lại bằng gốc. Xin hỏi luật sư, trong trường hợp này tôi sẽ phải giải quyết ra sao?  Việc công ty giữ bằng gốc của người lao động có bị phạt không?

 thu-tuc-thay-doi-giam-doc-cong-ty-tnhh

Luật sư tư vấn:

Chào bạn, cảm ơn bạn đã tin tưởng và gửi những thắc mắc của bạn đến Luật Minh Bạch. Với thắc mắc của bạn, chúng tôi xin tư vấn như sau:

Việc giữ giấy tờ gốc của nhân viên là vi phạm quy định của pháp luật .

Căn cứ theo điều 20 Bộ luật Lao động năm 2012:

“Điều 20. Những hành vi người sử dụng lao động không được làm khi giao kết, thực hiện hợp đồng lao động

  1. Giữ bản chính giấy tờ tuỳ thân, văn bằng, chứng chỉ của người lao động.
  2. Yêu cầu người lao động phải thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tiền hoặc tài sản khác cho việc thực hiện hợp đồng lao động”

Hành vi giữ bằng gốc của công ty bạn còn bị xử phạt vi phạm hành chính theo Khoản 2 Điều 5 Nghị định 88/2015/NĐ-CP Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 8 năm 2013 của chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

“2. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi sau đây:

  1. a)Giữ bản chính giấy tờ tùy thân, văn bằng, chứng chcủa người lao động;
  2. b)Buộc người lao động thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tiền hoặc tài sản khác cho việc thực hiện hợp đồng lao động;
  3. c)Giao kết hợp đồng lao động với người lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi mà không có sự đồng ý bằng văn bản của người đại diện theo pháp luật của người lao động.

Biện pháp khắc phục hậu quả “Buộc trả lại bản chính giấy tờ tùy thân, văn bằng, chứng chỉ đã giữ của người lao động đối với hành vi vi phạm”

Theo đó, công ty bạn có thể bị xử phạt 20.000.000 đến 25.000.000 đồng và buộc phải trả lại bằng cho bạn.

Trân trọng!

Dự thảo luật mới: Nhiều hành vi nghiêm cấm đối với tài xế ô tô và xe máy.

Dự thảo Luật Trật tự, An toàn Giao thông đường bộ mới đã đề xuất nhiều quy định nghiêm cấm đối với người tham gia giao thông, bao gồm tài xế ô tô và xe máy. Chia sẻ với Vietnam daily, Luật sư Trần Tuấn Anh (Giám đốc Công ty luật Minh Bạch) cho biết, tại điều 8 của dự thảo quy định về các hành vi bị cấm có nhiều quy định mới so với Luật giao thông đường bộ năm 2008. Trong đó, các hành vi bị cấm tập trung vào các vi phạm liên quan tới trật tự giao thông, các hành vi liên quan tới công tác quản lý đường bộ hoặc hoạt động vận tải đã được lược bỏ.

Các hành vi bị cấm bao gồm lái xe khi có nồng độ cồn hoặc chất ma túy trong cơ thể, cản trở lực lượng chức năng, đua xe trái phép, sử dụng điện thoại khi lái xe, chở hàng quá tải, và nhiều vi phạm khác liên quan đến việc sử dụng phương tiện không an toàn, giả mạo giấy tờ và biển số xe. Những hành vi này được quy định tại Điều 8 của dự thảo, và được Bộ Công an đề xuất nhằm tăng cường trật tự và an toàn giao thông.

Click vào đây để tìm hiểu

Đề xuất mới của Bộ Công an về ‘cấm tiếp xúc’, ngăn chặn bạo lực gia đình

Bộ Công an Việt Nam đang lấy ý kiến về dự thảo Thông tư quy định công tác giám sát việc thực hiện quyết định “cấm tiếp xúc” theo Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2022. Theo dự thảo, việc giám sát này nhằm bảo vệ các nạn nhân, ngăn chặn hiệu quả hành vi bạo lực gia đình, đồng thời góp phần xây dựng một môi trường gia đình an toàn, lành mạnh.

Dự thảo thông tư đề xuất nhiều cải tiến đáng chú ý, chẳng hạn như quy định thời hạn 6 giờ làm việc kể từ khi nhận quyết định cấm tiếp xúc của Chủ tịch UBND cấp xã (hoặc 3 ngày đối với quyết định từ Tòa án nhân dân) để công an địa phương phân công người giám sát. Việc phân công này dựa trên hoàn cảnh của cả người bị giám sát và người giám sát, đảm bảo hiệu quả và tránh tình trạng quá tải cho người giám sát.

Luật sư Trần Tuấn Anh nhận định rằng đây là một bước tiến quan trọng trong hệ thống pháp luật, giúp bảo vệ tốt hơn cho nạn nhân bạo lực gia đình, đặc biệt là với việc giám sát chặt chẽ và có sự phối hợp giữa các bên liên quan. Những quy định mới cũng giúp tăng tính răn đe của lệnh cấm tiếp xúc và góp phần xây dựng hành lang pháp lý vững vàng trong công tác phòng, chống bạo lực gia đình.

Mời bạn đọc thêm tại đây

Trong trường hợp có yêu cầu tư vấn về pháp luật, quý khách vui lòng liên hệ theo số điện thoại: 0986.931.555 – Luật sư Trần Tuấn Anh, Giám đốc Công ty Luật Minh Bạch sẽ tư vấn miễn phí cho quý khách. Trân trọng.

Trường hợp thì việc vay tiền giữa cá nhân với cá nhân phải chịu trách nhiệm hình sự?

Đối với những trường hợp nào thì phải chịu trách nhiệm hình sự trong việc vay tiền giữa cá nhân với cá nhân?

Người vay sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu việc vay mượn có dấu hiệu lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Theo đó, về chủ thể của tội phạm, người nào trên 16 tuổi, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự vay tiền nhằm mục đích lừa đảo (Điều 174) hoặc làm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175) thì sẽ bị xử lý hình sự theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015.

  1. Đối với trường hợp phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, yếu tố đầu tiên của tội phạm này về số tiền, số tiền tối thiểu là 2.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng đã bị phạt hành chính, kết án về tội này hoặc hành vi này ảnh hưởng nghiêm trọng đến người bị hại, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Yếu tố thứ hai là có hành vi gian dối trong việc thực hiện quan hệ vay mượn và gian dối là điều kiện và thủ đoạn để thực hiện hành vi này. Thủ đoạn gian dối có thể thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào như lời nói, hành động, giấy tờ giả mạo, không đúng sự thật nhằm tạo lòng tin của người cho vay để từ đó họ giao tài sản cho người phạm tội.

Hành vi này có thể bị xử lý hình sự với khung hình phạt từ 06 tháng cho đến tù chung thân tùy vào mức độ, tính chất nghiêm trọng của hành vi vi phạm.

  1. Đối trường hợp lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, về số tiền tối thiểu là 4.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị phạt hành chính, kết án về tội này hoặc hành vi này ảnh hưởng nghiêm trọng đến người bị hại, ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Hành vi chiếm đoạt ở đây là những hành vi không thực hiện đúng cam kết. Những hành vi đó là: Không trả lại tài sản bằng thủ đoạn bỏ trốn hoặc bằng thủ đoạn gian dối (như giả tạo bị mất, đánh tráo tài sản, rút bớt tài sản…); Không trả lại tài sản do không có khả năng vì đã sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp (như dùng vào việc buôn lậu, buôn bán hành cấm hay đánh bạc…

Hành vi bao gồm các giai đoạn: Người phạm tội có được tài sản một cách hợp pháp thông qua hợp đồng vay, mượn, thuê tài sản hoặc hợp đồng khác. Sau khi có được tài sản, người phạm tội không thực hiện như cam kết trong hợp đồng, sử dụng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản.

Hoặc thậm chí người vay mượn đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả.

Hành vi này có thể bị xử lý hình sự với khung hình phạt từ 06 tháng cho đến 20 năm tù tùy vào mức độ, tính chất nghiêm trọng của hành vi vi phạm.

Nếu việc vay mượn không có một trong những yếu tố nêu trên thì người vay không phải chịu trách nhiệm hình sự.

____________________________________________________________________________________________

Trên đây là quan điểm của Luật Minh Bạch về vấn đề trên, bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, để được hỗ trợ và tư vấn cụ thể hơn, quý bạn đọc vui lòng liên hệ trực tiếp:

Công ty Luật Minh Bạch

Địa chỉ: Phòng 703, số 272 Khương Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội

Hotline: 1900.6232

Email: luatsu@luatminhbach.vn

Trân trọng !

Bài viết cùng chủ đề

Bài viết mới nhất

video tư vấn

dịch vụ tiêu biểu

Bài viết xem nhiều

dịch vụ nổi bật