Hotline tư vấn: 0243 999 0601
Tư vấn qua email: info@luatminhbach.vn

Thủ tục đăng ký khai sinh quá hạn (quá 60 ngày sau khi sinh)

Câu hỏi: 

Tôi lấy chồng không làm giấy đăng ký kết hôn, sinh con cũng chưa làm giấy khai sinh. Nay tôi muốn làm giấy khai sinh cho cháu để cháu đi học (năm nay bé 7 tuổi). Cho tôi hỏi, muốn làm giấy khai sinh cho cháu thì cần những thủ tục, giấy tờ gì?
Trả lời :
Cảm ơn bạn đã tin tưởng Luật Minh Bạch và gửi câu hỏi về cho chúng tôi, luật sư chúng tôi xin tư vấn cho bạn như sau:

Theo Điều 14 Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ quy định đăng ký và quản lý về hộ tịch: Trong thời hạn 60 ngày, kể từ ngày sinh con, cha, mẹ có trách nhiệm đi khai sinh cho con, nếu cha, mẹ không thể đi khai sinh, thì ông, bà hoặc những người thân thích khác đi khai sinh cho trẻ em.

Như vậy, theo quy định trên thì con của chị đã quá hạn làm giấy khai sinh. Điều 43 Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ quy định đăng ký và quản lý về hộ tịch quy định: Việc sinh chưa đăng ký trong thời hạn quy định tại Điều 14 của nghị định này, thì phải đăng ký theo thủ tục đăng ký quá hạn.

Điều 45 Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ quy định đăng ký và quản lý về hộ tịch quy định thủ tục đăng ký khai sinh quá hạn gồm:

– Giấy chứng sinh (theo mẫu quy định)

– Giấy kết hôn của cha, mẹ trẻ em (nếu cha, mẹ của trẻ em có đăng ký kết hôn)

– Hộ khẩu hoặc đăng ký tạm trú của người mẹ (người thân)

– Chứng minh thư nhân dân của mẹ (người thân)

Giấy chứng sinh do cơ sở y tế, nơi trẻ em sinh ra cấp; nếu trẻ em sinh ra ngoài cơ sở y tế, thì Giấy chứng sinh được thay bằng văn bản xác nhận của người làm chứng.

Trong trường hợp không có người làm chứng, thì người đi khai sinh phải làm giấy cam đoan về việc sinh là có thực. Trong trường hợp cán bộ tư pháp hộ tịch biết rõ về quan hệ hôn nhân của cha mẹ trẻ em, thì không bắt buộc phải xuất trình Giấy chứng nhận kết hôn.

Trong trường hợp khai sinh cho con ngoài giá thú, nếu không xác định được người cha, thì phần ghi về người cha trong Sổ đăng ký khai sinh và Giấy khai sinh để trống. Nếu vào thời điểm đăng ký khai sinh có người nhận con, thì UBND cấp xã kết hợp giải quyết việc nhận con và đăng ký khai sinh.

Với trường hợp của bạn thì tất cả các giấy tờ trên nộp tại cán bộ tư pháp hộ tịch xã  nơi hiện nay chị đang cư ngụ.

Mọi thắc mắc bạn vui lòng liên hệ hotline 19006232 để được giải đáp .

Trân trọng!

 

Trên đây là quan điểm của Luật Minh Bạch về vấn đề trên, bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, để được hỗ trợ và tư vấn cụ thể hơn, quý bạn đọc vui lòng liên hệ trực tiếp:

Trân trọng !

0.0 sao của 0 đánh giá

Bài viết liên quan

Pháp nhân thương mại phạm tội trốn thuế sẽ bị xử lý như thế nào?

Tội trốn thuế là một trong 33 tội danh pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự. So với quy định tại BLHS 1999, điều 200 tại BLHS 2015 đã cụ thể hóa các hành vi phạm tội trốn thuế; mở rộng khả năng áp dụng hình phạt tiền trên cơ sở nâng mức phạt tiền; quy định mức phạt tiền cụ thể thay vì tính theo số lần so với số tiền trốn thuế như trước kia

Tội trốn thuế có những dạng hành vi nào?

Hành vi phạm tội này được hiểu là hành vi cố ý không nộp các khoản thuế mà người phạm tội phải nộp theo quy định của pháp luật, gồm 9 dạng hành vi. Các hành vi này đều được thực hiện với lỗi cố ý và đều nhằm mục đích là không nộp hoặc nộp không đúng, không đầy đủ số tiền thuế phải nộp theo quy định của pháp luật về thuế. Các hành vi được quy định trong Điều 108 Luật Quản lý Thuế, cụ thể như sau:

  • Không nộp hồ sơ đăng ký thuế; không nộp hồ sơ khai thuế; nộp hồ sơ khai thuế sau 90 ngày kể từ ngày hết hạn nộp hồ sơ khai thuế hoặc hết thời hạn gia hạn nộp hồ sơ khai thuế theo quy định của pháp luật;
  • Không ghi chép trong sổ kế toán các khoản thu liên quan đến việc xác định số tiền thuế phải nộp;
  • Không xuất hóa đơn khi bán hàng hóa, dịch vụ hoặc ghi giá trị trên hóa đơn bán hàng thấp hơn giá trị thanh toán thực tế của hàng hóa, dịch vụ đã bán;
  • Sử dụng hóa đơn, chứng từ không hợp pháp để hạch toán hàng hóa, nguyên liệu đầu vào trong hoạt động phát sinh nghĩa vụ thuế làm giảm số tiền thuế phải nộp hoặc làm tăng số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được giảm hoặc tăng số tiền thuế được khấu trừ, số tiền thuế được hoàn;
  • Sử dụng chứng từ, tài liệu không hợp pháp khác để xác định sai số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được hoàn;
  • Khai sai với thực tế hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu mà không khai bổ sung hồ sơ khai thuế sau khi hàng hóa đã được thông quan
  • Cố ý không kê khai hoặc khai sai về thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu
  • Câu kết với người gửi hàng để nhập khẩu hàng hóa
  • Sử dụng hàng hóa thuộc đối tượng không chịu thuế, miễn thuế, xét miễn thuế không đúng mục đích quy định mà không khai báo việc chuyển đổi mục đích sử dụng với cơ quan quản lý thuế

Loại hình phạt và mức hình phạt áp dụng cho Pháp nhân phạm tội trốn thuế

Khung 1: Phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng với pháp nhân thực hiện 1 trong 9 hành vi nêu trên thuộc các trường hợp:

  • Trốn thuế với số tiền từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng
  • Số tiền thuế trốn dưới 100.000.000 đồng mà trước đó, người phạm tội đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế, chưa được xóa án tích của lần vi phạm hành chính này mà lại tiếp tục thực hiện hành vi trốn thuế

(hoặc)

  • Đã bị kết án về tội trốn thuế hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195, 196, 202, 250, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của BLHS 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm

Khung 2: Phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng nếu phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:

  • Có tổ chức
  • Số tiền trốn thuế Số tiền trốn thuế từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng;
  • Phạm tội 02 lần trở lên;
  • Tái phạm nguy hiểm.

Khung 3: Phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 10.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm nếu phạm tội trốn thuế với số tiền 1.000.000.000 đồng trở lên

Khung 4: Đình chỉ vĩnh viễn toàn bộ hoạt động trong trường hợp:

Pháp nhân thương mại được thành lập chỉ để thực hiện tội phạm, gây thiệt hại hoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại đến tính mạng của nhiều người, gây sự cố môi trường hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và không có khả năng khắc phục hậu quả gây ra

Ngoài ra, pháp nhân thương mại còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền từ 50 triệu đến 200 triệu đồng,  cấm kinh doanh, hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật

Mọi thắc mắc pháp lý cần tư vấn hoặc yêu cầu dịch vụ, quý khách vui lòng liên hệ Tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến 19006232hoặc gửi thư về địa chỉ emai: luatsu@luatminhbach.vn

Xem thêm các bài viết cùng chủ đề:

Tội trốn thuế theo quy định của Bộ Luật Hình sự 2015

Pháp nhân thương mại có thể phải chịu trách nhiệm hình sự những tội danh nào

Quản lý tài chính Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC)

Từ ngày 01/11/2016, Thông tư 134/2016/TT-BTC về việc ban hành Quy chế quản lý tài chính của Công ty trách nhiệm hữu hạn Mua bán nợ Việt Nam (DATC) sẽ có hiệu lực.

banno

ảnh minh họa (internet)

Theo đó, DATC có thể thực hiện đầu tư vốn ra ngoài công ty dưới các hình thức sau:

– Góp vốn không thông qua hoạt động mua bán nợ để thành lập công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn; hợp đồng hợp tác kinh doanh không hình thành pháp nhân mới;

– Sử dụng tài sản và nợ đã mua để góp vốn, chuyển nợ thành vốn góp tại công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh;

– Mua toàn bộ doanh nghiệp khác;

– Mua công trái, trái phiếu, các công cụ nợ khác, mua lại trái phiếu, hối phiếu do DATC phát hành; đầu tư tiền gửi tại Kho bạc Nhà nước và Ngân hàng thương mại để hưởng lãi.

– Các hình thức đầu tư khác theo quy định pháp luật sau khi có ý kiến đồng ý bằng văn bản của Bộ Tài chính.

Thông tư 134/2016/TT-BTC thay thế Quyết định 2857/QĐ-BTC ngày 09/11/2012.

 

Quy trình khôi phục mã số thuế cho doanh nghiệp

Quyết định số 438/QĐ-TCT ngày 5/4/2017 của Tổng cục Thuế về việc ban hành Quy trình quy định về trình tự thủ tục xác minh tình trạng hoạt động, thông báo công khai thông tin, xử lý và khôi phục mã số thuế đối với người nộp thuế không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký với cơ quan thuế.

Theo đó, Số lượng các doanh nghiệp được thành lập mới mấy năm qua tăng lên đáng kể; Tuy nhiên cũng không ít doanh nghiệp giải thể, tạm ngừng hoạt động hoặc bỏ địa điểm kinh doanh chuyển đi nơi khác. Nhằm tăng cường công tác quản lý của cơ quan thuế đối với người nộp thuế (NNT) có dấu hiệu cần xác minh để xác định NNT còn hoạt động hay không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký; xử lý và khôi phục mã số thuế (MST) đối với NNT và để đảm bảo quyền lợi của NNT cũng như ngăn chặn các hiện tượng lợi dụng chiếm đoạt tiền thuế của Nhà nước

Theo đó, một số nội dung chính được quy định như sau:

 Một là: Về các trường hợp cần xác minh tình trạng hoạt động của NNT tại địa chỉ đã đăng ký gồm:  Quá thời hạn NNT không nộp hồ sơ khai thuế; NNT không nhận văn bản của cơ quan thuế gửi qua bưu điện; Cơ quan thuế nhận được thông tin bằng văn bản do các tổ chức, cá nhân cung cấp về việc NNT không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký; NNT là đơn vị chủ quản thuộc một trong các trường hợp đang tiến hành xác minh thực tế tình trạng hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký; NNT đã làm thủ tục chuyển địa điểm tại cơ quan thuế nơi đi nhưng quá thời hạn theo quy định không đến làm thủ tục tại cơ quan thuế nơi đến và trường hợp NNT không có thông tin phản hồi, không thực hiện các văn bản của cơ quan thuế.

Các bộ phận có liên quan xác minh tình trạng hoạt động của NNT tại địa chỉ đã đăng ký. Thông báo, cập nhật và công khai thông tin của NNT không còn hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký. Cập nhật tình trạng NNT không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký (trạng thái 06) vào Hệ thống ứng dụng đăng ký thuế. Thông báo NNT không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký, công khai thông tin lên Website của Cục Thuế và kết nối với Website của Tổng cục Thuế công khai NNT không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký ngay trong ngày hoặc chậm nhất là đầu giờ ngày hôm sau đồng thời phối hợp với các cơ quan báo chí, đài phát thanh, truyền hình địa phương thông báo công khai nội dung ghi trên Thông báo NNT không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký để NNT khác biết phòng ngừa và tránh bị lợi dụng.

Hai là: Xử lý đối với NNT không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký

Đối với cơ quan thuế trực tiếp quản lý NNT không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký phải thông báo cho NNT về việc không tiếp nhận hồ sơ thông báo phát hành hóa đơn của NNT đã bị cơ quan thuế thông báo không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký; Dừng ngay việc bán hoá đơn đối với NNT (thuộc đối tượng mua hoá đơn của cơ quan thuế) không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký mà không khai báo với cơ quan thuế; phải thông báo cho tổ chức cung cấp giải pháp hoá đơn điện tử trong trường hợp NNT thông qua hệ thống trung gian của tổ chức cung cấp giải pháp hoá đơn điện tử để tổ chức này dừng không lập hoá đơn và truyền cho người mua.

Đối với cơ quan thuế có liên quan khi nhận được thông báo NNT là đơn vị chủ quản không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký với cơ quan thuế có các đơn vị trực thuộc trên địa bàn thuộc cơ quan thuế mình quản lý trực tiếp phải cập nhật trạng thái không còn hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký theo trạng thái MST của đơn vị chủ quản.

Khi nhận được thông báo hoặc qua tra cứu thông tin trên Trang thông tin điện tử của ngành thuế về NNT không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký thấy NNT (người mua hàng) thuộc cơ quan thuế mình trực tiếp quản lý có giao dịch tại ngân hàng với NNT không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký và sử dụng hoá đơn bất hợp pháp ghi ngày trên hoá đơn từ ngày phát hành thông báo NNT không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký về sau, hoặc khi nhận được văn bản thông báo của cơ quan thuế có liên quan và các ngành chức năng chuyển đến kết luận NNT có sử dụng hoá đơn bất hợp pháp, Cơ quan thuế phải thực hiện xử lý đối với NNT (người mua) sử dụng hóa đơn bất hợp pháp theo quy định của pháp luật.

Ba là: Khôi phục MST

Về trường hợp được khôi phục MST: NNT ở tình trạng cơ quan thuế đã ban hành Thông báo NNT không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký nhưng cơ quan đăng ký kinh doanh chưa ban hành Quyết định thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh; cơ quan quản lý nhà nước khác chưa ban hành văn bản thu hồi Giấy phép thành lập và hoạt động hoặc Giấy phép tương đương, NNT có văn bản đề nghị cơ quan thuế khôi phục MST và cam kết thanh toán các nghĩa vụ thuế với NSNN, chấp hành việc xử phạt vi phạm hành chính về thuế thì được xem xét khôi phục MST.

Về thủ tục khôi phục MST: các bộ phận liên quan của cơ quan thuế thực hiện các công việc với thời hạn cụ thể như sau: khi nhận được văn bản của NNT do Bộ phận hành chính văn thư chuyển đến: thực hiện đăng ký văn bản ”đến”, trong thời hạn 03 ngày làm việc: xác định tình hình sử dụng hoá đơn, xử phạt hành vi vi phạm về hóa đơn (nếu có) của NNT; Trong thời hạn 03 ngày làm việc: xác định số tiền thuế còn nợ, số tiền phạt, tiền chậm nộp (nếu có); Trong thời hạn 05 ngày làm việc: thực hiện xác minh thực tế tại địa chỉ trụ sở kinh doanh của NNT và lập Biên bản xác minh tình trạng hoạt động của NNT tại địa chỉ đã đăng ký theo hồ sơ đề nghị khôi phục mã số thuế của NNT (NNT phải ký xác nhận vào Biên bản); Trong thời hạn 03 ngày làm việc: lập danh sách các hồ sơ khai thuế còn thiếu, tình hình sử dụng hoá đơn, số tiền thuế còn nợ, số tiền phạt, tiền chậm nộp (nếu có), gửi thông báo cho NNT biết và thực hiện xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Cơ quan thuế làm thủ tục khôi phục MST và thông báo cho NNT trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày NNT chấp hành đầy đủ các hình thức xử phạt hành vi vi phạm hành chính về thuế và hóa đơn.

Những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay

Áp dụng pháp luật chịu sự quy định, ảnh hưởng của nhiều yếu tố thuộc cả cơ sở hạ tầng lẫn kiến trúc thượng tầng pháp lý. Điều này làm cho việc áp dụng pháp luật phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, sau đây là một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình áp dụng pháp luật:

1.Hoạt động xây dựng pháp luật:

 Hoạt động áp dụng pháp luật có liên quan rất chặt chẽ với hoạt động xây dựng pháp luật. Để thực hiện và áp dụng pháp luật có hiệu quả trước hết phải có pháp luật tốt. Nói cụ thể hơn là phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh , đồng bộ , sát thực tế, phù hợp với các quy luật khách quan của sự phát triển kinh tế-xã hội, phù hợp với những điều kiện kinh tế , chính trị,văn hóa xã hội, tâm lí, tổ chức .mà trong đó pháp luật sẽ tác động, đáp ứng những nhu cầu đòi hỏi của đất nước ở mỗi thời kì phát triển . Sau khi đã ban hành pháp luật, vấn đề quan trọng có ảnh hưởng tới việc thực hiện , áp dụng pháp luật là tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cho cán bộ và nhân dân để mọi người nắm được các quy định của pháp luật, từ đó họ có ý thức tự giác tuân theo pháp luật.

2.Trình độ văn hóa pháp lí của cán bộ và nhân dân và sự sáng tạo của mỗi cơ quan hoặc tổ chức :

trình độ pháp lí của cán bộ, nhân dân trong xã hội và sự sáng tạo của mỗi cơ quan hoặc tổ chức. Sự hoàn thiện của hoạt động áp dụng pháp luật đòi hỏi trình độ văn hóa pháp lí cao của cán bộ và nhân dân trong xã hội.Vì vậy cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật nhằm nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân , tạo lòng tin của nhân dân vào pháp luật để từ đó họ có những hành vi pháp luật tích cực, biết sử dụng pháp luật vào việc bảo vệ quyền , lợi ích hợp pháp của mình cũng như của người khác và đấu tranh không khoan nhượng với các hiện tượng tiêu cực , vi phạm pháp luật trong xã hội. Trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan áp dụng pháp luật phải đảm bảo tính năng động , chủ động, sáng tạo , sự độc lập của mỗi cơ quan hoặc mỗi bộ phận đồng thời đảm bảo sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa các cơ quan, giữa các bộ phận cùng tham gia áp dụng pháp luật cũng như sự phối hợp, hợp tác giữa các cơ quan áp dụng pháp luật với các cơ quan khác của Nhà nước hoặc với các tổ chức xã hội .

3.Công tác tổ chức và cán bộ của các cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp luật:

Áp dụng pháp luật vốn là hoạt động do các cơ quan hoặc các chủ thể có thẩm quyền tiến hành như cơ quan hành chính, tòa án, viện kiểm sát,…Do tính chất quan trọng và phức tạp của hoạt động áp dụng pháp luật nên chủ thể bị áp dụng pháp luật có thể được hưởng lợi ích rất lớn nhưng cũng có thể phải chịu những hậu quả bất lợi nên trong pháp luật luôn có sự xác định rõ ràng cơ sở, điều kiện, trình tự thủ tục… của chủ thể trong quá trình áp dụng pháp luật. Chính vì vậy các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần được tổ chức một cách khoa học, có sự phân công rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền của mỗi cơ quan, mỗi bộ phận để tránh hiện tượng chồng chéo, mâu thuẫn cản trở nhau trong công việc của các cơ quan này. Sự không thống nhất, không phân định rõ ràng phạm vi, lĩnh vực hoạt động hoặc thẩm quyền của các cơ quan dẫn đến có những vụ việc thì nhiều cơ quan tranh nhau giải quyết nhưng lại có những vụ việc thì đùm đẩy không cơ quan nào nhận trách nhiệm giải quyết. Trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan áp dụng pháp luật phải đảm bảo tính năng động, chủ động, sáng tạo, sự độc lập của mỗi cơ quan hoặc mỗi bộ phận đồng thời đảm bảo sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa các cơ quan, giữa các bộ phận cùng tham gia áp dụng pháp luật cũng như sự phối hợp, hợp tác giữa các cơ quan áp dụng pháp luật với các cơ quan khác của Nhà nước hoặc với các tổ chức xã hội.

4.Hoạt động của các cơ quan áp dụng pháp luật:

Đặc biệt, hoạt dộng của các cơ quan áp dụng pháp luật còn thể hiện ở sự thông thạo các công việc mà họ đảm nhận và thực hiện chúng với tinh thần trách nhiệm cao, tránh hiện tượng quan lieu, cửa quyền, sách nhiễu, trì trệ, giấy tờ hình thức hoặc thờ ơ lãnh đạm đối với số phận, tính mạng con người, với tài sản của nhà nước và nhân dân. Thực tế cho thấy sự quan liêu, chậm trễ, thiếu tinh thần trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc một số cán bộ có chức có quyền trong việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân dẫn dến nhiều vụ việc đơn giản lại trở nên phức tạp, nhiều sự oan ức bất bình trong nhân dân không giải quyết được gây ra hậu quả không thể lường trước.

5.Các văn bản áp dụng pháp luật:

Bởi tính hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng, sự tác động của các văn bản áp dụng pháp luật. Quá trình áp dụng pháp luật phải thông qua một số giai đoạn nhất định, các giai đoạn đó được thực hiện nhờ sự trợ giúp của các văn bản áp dụng pháp luật. Hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào văn bản áp dụng pháp luật. Do vậy các văn bản áp dụng pháp luật phải được ban hành phù hợp với một số yêu cầu sau : văn bản áp dụng pháp luật phải hợp pháp, nghĩa là nó được ban hành đúng thẩm quyền hoặc nhà chức trách chỉ được ban hành một số văn bản áp dụng pháp luật nhất định theo quy định của pháp luật, văn bản áp dụng pháp luật phải được ban hành có cơ sở thực tế, nghĩa là nó được ban hành căn cứ vào những sự kiện, những đòi hỏi thực tế đầy đủ, chính xác và đáng tin cậy .

6.Ý thức pháp luật của người áp dụng pháp luật, người bị áp dụng pháp luật, chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật và chủ thể bị áp dụng pháp luật:

Ý thức pháp luật có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động áp dụng pháp luật. Tất cả các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật, chủ thể bị áp dụng pháp luật, người áp dụng pháp luật và người bị áp dụng pháp luật đều cần có ý thức pháp luật để điều chỉnh hành vi của mình và hành vi của các chủ thể khác phù hợp với much đich, yêu cầu của pháp luật. Âp dụng pháp luật là một qua trình phức tạp đòi hỏi người áp dụng pháp luật phải có ý thức pháp luật cao nếu không có ý thúc phap luật cao thì chủ thể bị áp dụng pháp luật sẽ rất khó để nhận thấy rằng ý thức pháp luật đã có tác động tích cực đến quá trình thực hiện nghiệp vụ của chủ thể tiến hành.

7.Những điều kiện vật chất – kỹ thuật cần thiết đảm bảo cho hoạt động áp dụng pháp luật:

Hoạt động áp dụng pháp luật còn chịu ảnh hưởng của những điều kiện đảm bảo cần thiết về vật chất – kỹ thuật. Nhiều văn bản pháp luật, nhiều quy định của pháp luật muốn thực hiện được trong thực tế đòi hỏi phải có một chi phí rất lớn về sức người và trang bị vật chất – kỹ thuật(Ví dụ như kinh phí để thực hiện áp dụng pháp luật). Hoạt động áp dụng pháp luật phải luôn tuân theo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tất cả các công đoạn, đấu tranh không khoan nhượng với những biểu hiện vi phạm pháp luật, những hành vi áp dụng pháp luật không đúng, không phù hợp .

Đúng hay sai với việc giải quyết của UBND các cấp đối với người bị thu hồi đất phục vụ cho lợi ích công cộng

Tình huống:

Tôi (Nguyễn Văn A)  là chủ sử dụng hợp pháp thửa đất diện tích 250 m2. Năm 2005, thửa đất này được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hiện khu đất này có một ngôi nhà ở và khu tường rào bao xung quanh. Năm 2008, do nhu cầu mở rộng, nâng cấp dưỡng giao thông liên xã, UBND xã Hải Bình( huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa) yêu cầu tôi tự tháo dỡ tường bao và cây cối trên phần diện tích đất nhỏ ra phía ngoài đường(Phần đất này nằm trong khuôn viên đất của gia đình tôi). Tôi không đồng ý với lí do đây là phần đất của gia đình tôi, không phải là đất lấn chiếm. Sau đó UBND huyện Tĩnh gia có công văn chỉ đạo UBND xã Hải Bình tổ chức cưỡng chế, dỡ bỏ công trình, cây cối trên phần đất của gia đình tôi được sử dụng để làm đường giao thông liên xã. Gia đình tôi không đồng thuận và gửi rất nhiều đơn khiếu nại tới UBND huyện Tỉnh Gia, UBND xã Hải Bình nhưng đến nay vẫn chưa nhận được hồi âm.Tôi muốn hỏi việc làm của UBND huyện Tỉnh Gia và UBND xã Hải Bình với gia đình tôi là đúng hay sai?

Trả lời tư vấn:

Việc làm của UBND huyện Tỉnh Gia và UBND xã Hải Bình với gia đình ông  là không đúng theo quy định của pháp luật.

  • Thứ nhất, về thẩm quyền thu hồi đất.

Theo quy định tại khoản 2,3 điều 44 Luật Đất Đai 2003:”2. Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh quyết định thu hồi đất đối với hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam;

  1. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi đất quy định tại khoản 1 và khoản 2 điều này không được ủy quyền”.

Theo đó, thẩm quyền thu hồi đất của UBND cấp trên không được phép ủy quyền cho UBND cấp dưới. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi đất phải thực hiện đứng thẩm quyền của mình. Do đó, thẩm quyền thu hồi đất ở đây là UBND huyện Tĩnh Gia.

  • Thứ hai, về điều kiện cưỡng chế thu hồi đất.

Trong vụ việc trên, UBND xã Hải Bình( huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa) yêu cầu ông  tự tháo dỡ tường bao và cây cối trên phần diện tích đất nhỏ ra phía ngoài đường(Phần đất này nằm trong khuôn viên đất của gia đình ông). Ông A không đồng ý với lí do đây là phần đất của gia đình ông, không phải là đất lấn chiếm. Sau đó, UBND huyện Tĩnh Gia có công văn chỉ đạo UBND xã Hải Bình cưỡng chế gia đình ông . Như vậy thì đã bỏ qua một số bước mà đi thẳng vào vấn đề cưỡng chế thu hồi đất. Theo điều 32 nghị định 69/2009/NĐ- CP quy định về điều kiện cưỡng chế thu hồi đất:”

  1. Việc cưỡng chế thu hồi đất theo quy định tại khoản 3 Điều 39 của Luật Đất đai chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau đây:
  2. a) Thực hiện đúng trình tự, thủ tục về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư quy định tại các Điều 27, 28, 29 và 38 Nghị định này;
  3. b) Quá ba mươi (30) ngày, kể từ thời điểm phải bàn giao đất quy định tại khoản 6 Điều 29 Nghị định này mà người có đất bị thu hồi không bàn giao đất cho Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng;
  4. c) Sau khi đại diện của Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng, Ủy ban nhân dân và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp xã nơi có đất thu hồi đã vận động thuyết phục nhưng người có đất bị thu hồi không chấp hành việc bàn giao đất đã bị thu hồi cho Nhà nước;
  5. d) Có quyết định cưỡng chế của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định của pháp luật đã có hiệu lực thi hành;

đ) Người bị cưỡng chế đã nhận được quyết định cưỡng chế. Trường hợp người bị cưỡng chế từ chối nhận quyết định cưỡng chế thì Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp xã niêm yết công khai quyết định cưỡng chế tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất thu hồi.

  1. Sau mười lăm (15) ngày, kể từ ngày giao trực tiếp quyết định cưỡng chế hoặc ngày niêm yết công khai quyết định cưỡng chế quy định tại điểm đ khoản 1 Điều này mà người bị cưỡng chế không bàn giao đất thì Ủy ban nhân dân cấp huyện chỉ đạo, tổ chức lực lượng cưỡng chế thu hồi đất theo quy định của pháp luật”.

 Theo quy định của điều luật thì đã qua 30 ngày kể từ thời điểm phải bàn giao đất mà ông  không bàn giao cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng. Sau đó, UBND và UB Mặt Trận Tổ Quốc xã Hải Bình đã thuyết phục nhưng ông  vẫn không giao nộp thì khi đó UBND huyện Tỉnh Gia mới được có quyết định cưỡng chế theo quy định của pháp luật. Và quyết định cưỡng chế có hiệu lực thi hành phải thông báo quyết định đến gia đình ông . Nếu ông  từ chối thì tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng phối hợp với UBND xã Hải Bình công khai quyết định cưỡng chế tại trụ sở UBND cấp xã Hải Bình nơi có thu hồi đất. Sau 15 ngày, kể từ ngày giao trực tiếp quyết định cưỡng chế hoặc ngày niêm yết công khai quyết định cưỡng chế mà ông  không bàn giao đất hì lúc này UBND huyện Tỉnh Gia mới được chỉ đạo UBND xã Hải Bình tổ chức cưỡng chế thu hồi đất của ông A.

  • Thứ ba, về việc giải quyết khiếu nại của ông.

 Theo điều 34 và 36 Luật khiếu nại, tố cáo thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn khiếu nại thuộc thẩm quyền giải quyết của mình, người giải quyết khiếu nại lần đầu phải thụ lí đẻ giải quyết và thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại biết; trường hợp không thụ lí để giải quyết thì phải nêu lí do. Thời hạn giải quyết lần đầu không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lí giải quyết;đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lí để giải quyết. Ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết lần đầu là khôn quá 45 ngày, kể ừ ngày thụ lí để giải quyết; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lí để giải quyết.

Do đó, việc làm của UBND huyện Tỉnh Gia và UBND xã Hải Bình đối với gia đình ông  là sai mà cần thực hiện các thủ tục tại điều 32 nghị định 69/2009 thì mới được ra quyết định như trên.

Điều 187 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về quyền chiếm hữu của người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản

Điều 187. Quyền chiếm hữu của người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản

1. Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản thực hiện việc chiếm hữu tài sản đó trong phạm vi, theo cách thức, thời hạn do chủ sở hữu xác định.

2. Người được chủ sở hữu ủy quyền quản lý tài sản không thể trở thành chủ sở hữu đối với tài sản được giao theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này.

 

Trên đây là quan điểm trả lời của Luật Minh Bạch. Bài viết trên chỉ mang tính chất tham khảo, để được hỗ trợ và tư vấn cụ thể hơn, quý bạn đọc vui lòng liên hệ theo địa chỉ:

Công ty Luật Minh Bạch

Phòng 703, số 272 Khương Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội

Hotline: 1900.6232

Email: luatsu@luatminhbach.vn

Trân trọng!

 

Trách nhiệm pháp lý khi xảy ra vụ tai nạn sập giàn giáo nghiêm trọng tại dự án chung cư Eco Green

Gần đây nhất vụ tai nạn sập giàn giáo nghiêm trọng tại dự án  chung cư Eco Green (số 1 phố Giáp Nhất, phường Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội) khiến 2 người chết, 4 người bị thương ngày 13/10.

Trước tiên, tôi xin chia sẻ những mất mát, đau thương đối với gia đình các nạn nhân trong vụ việc nêu trên. Hậu quả của vụ tai nạn là đặc biệt nghiêm trọng và nó cho chúng ta thấy công tác đảm bảo thi công tại các công trường xây dựng hiện nay ở Việt Nam đang “có vấn đề”, bởi đây không phải là vụ tai nạn thương tâm duy nhất trong thời gian ngắn trở lại đây. Dưới góc độ một người dân, tôi luôn có cảm giác bất an khi đi qua các công trình xây dựng cao tầng tại Việt Nam. Cần cẩu, giàn giáo, sắt thép, vật liệu xây dựng ….có thể lao xuống đầu người dân bất cứ lúc nào và người dân luôn phải đối mặt với những cái chết tức tưởi từ trên trời rơi xuống.

Luật sư: Trần Tuấn Anh - Giám đốc công ty Luật Minh Bạch ( Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội)
Luật sư: Trần Tuấn Anh – Giám đốc công ty Luật Minh Bạch ( Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội)

Dưới góc độ pháp luật, thì việc đảm bảo an toàn công trình, tính mạng, sức khỏe con người và tài sản được xem là “nguyên tức cơ bản trong hoạt động xây dựng” và đã được quy định cụ thể, chi tiết trong Luật Xây dựng Việt Nam năm 2014. Theo đó, việc vi phạm quy định về an toàn lao động là một hành vi bị nghiêm cấm theo quy định tại khoản 10 Điều 12 của Luật này. Chi tiết hơn, tại Điều 115 Luật Xây dựng đã quy định rất rõ về “An toàn trong thi công xây dựng công trình” và trách nhiệm này thuộc về cả chủ đầu tư và đơn vị thi công công trình. Cụ thể:

“1. Trong quá trình thi công xây dựng, chủ đầu tư, nhà thầu thi công xây dựng có trách nhiệm bảo đảm an toàn cho công trình, người lao động, thiết bị, phương tiện thi công làm việc trên công trường xây dựng.

  1. Chủ đầu tư phải bố trí người có đủ năng lực theo dõi, kiểm tra việc thực hiện các quy định về an toàn của nhà thầu thi công xây dựng; tạm dừng hoặc đình chỉ thi công khi phát hiện có sự cố gây mất an toàn công trình, dấu hiệu vi phạm quy định về an toàn; phối hợp với nhà thầu xử lý, khắc phục khi xảy ra sự cố hoặc tai nạn lao động; thông báo kịp thời với cơ quan chức năng có thẩm quyền khi xảy ra sự cố công trình, tai nạn lao động gây chết người.
  2. Nhà thầu thi công xây dựng phải đề xuất, thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn cho người, máy, thiết bị, tài sản, công trình đang xây dựng, công trình ngầm và các công trình liền kề; máy, thiết bị, vật tư phục vụ thi công có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động phải được kiểm định về an toàn trước khi đưa vào sử dụng”.

Như vậy, pháp luật thì đã rõ, quy định cũng rất chi tiết, tuy nhiên, tình trạng vi phạm vẫn xảy ra thường xuyên, thường là các vụ tai nạn lao động trong xây dựng ngày càng có tính chất nghiêm trọng hơn và theo đó, thiệt hại về người và tài sản cũng ngày càng lớn hơn.

Theo quan điểm của tôi, sở dĩ tình trạng này liên tục tiếp diễn và ngày càng gia tăng là do chính con người, những ông chủ đầu tư, ông chủ thầu xây dựng công trình, cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực xây dựng và đôi khi là do chính những người công nhân xây dựng chưa biết sử dụng hết quyền của mình trong việc có thể từ chối thực hiện công việc khi điều kiện an toàn cho chính bản thân mình không đảm bảo.

Ở đây, cứ sau mỗi vụ tai nạn lao động nghiêm trọng, lại sẽ có việc thanh tra, kiểm tra về an toàn lao động tại công trường. Rõ ràng là chúng ta đã “mất bò mới lo làm chuồng”, sự việc xảy ra rồi, thiệt hại rồi mới thanh tra, kiểm tra và có đôi khi là xử phạt, song rồi đâu lại vào đấy, vì lợi nhuận, vì tiến độ, vì miếng cơm manh áo….các vụ tai nạn lao động thương tâm vẫn tiếp tục xảy ra.

Tôi cho rằng, để xảy ra tình trạng này, không thể không có trách nhiệm từ sự buông lỏng quản lý của cơ quan chức năng trong vấn đề quản lý xây dựng tại các công trường.

Đối với công trình xây dựng để xảy ra tình trạng mất an toàn gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng như vậy thì điều đầu tiên cần làm là phải ngay lập tức đình chỉ các hoạt động thi công để cơ quan chức năng, chủ đầu tư, nhà thầu thi công rà soát lại một cách thực sự nghiêm túc về điều kiện đảm bảo an toàn lao động đối với cán bộ, công nhân đang thi công tại công trường. Bên cạnh đó, cơ quan chức năng cần phải có những biện pháp giám sát chặt chẽ hơn nữa đối với các công trình xây dựng kiểu như thế này để hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại có thể xảy ra trong quá trình thi công tiếp theo.

Về phía người lao động bị chết và bị thương trong vụ tai nạn vừa rồi sẽ được bồi thường theo quy định của pháp luật tương ứng với thiệt hại xảy ra đối với cụ thể của từng người. Liên quan đến mức bồi thường cụ thể thì pháp luật tôn trọng quyền tự quyết, tự thỏa thuận của các bên để xác định mức bồi thường phù hợp. Trong trường hợp các bên không thể tự thỏa thuận được mức bồi thường thì có thể yêu cầu Tòa án xác định theo căn cứ pháp luật dựa trên các thiệt hại xảy ra trên thực tế và lỗi của các bên trong mối quan hệ này.

Người thực hiện: Luật sư Trần Tuấn Anh – Giám đốc Công ty Luật Minh Bạch (Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội).

Điều 206 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng

Điều 206. Chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng

1. Chủ sở hữu có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, sản xuất, kinh doanh và các mục đích khác không trái pháp luật.

2. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản thuộc sở hữu riêng không được gây thiệt hại hoặc làm ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.

 

Trên đây là quan điểm trả lời của Luật Minh Bạch. Bài viết trên chỉ mang tính chất tham khảo, để được hỗ trợ và tư vấn cụ thể hơn, quý bạn đọc vui lòng liên hệ theo địa chỉ:

Công ty Luật Minh Bạch

Phòng 703, số 272 Khương Đình, phường Hạ Đình, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội

Hotline: 1900.6232

Email: luatsu@luatminhbach.vn

Trân trọng!

 

Bài viết cùng chủ đề

Bài viết mới nhất

video tư vấn

dịch vụ tiêu biểu

Bài viết xem nhiều

dịch vụ nổi bật